Wednesday, December 5, 2012

Trình Tổng Thống... Tôi quyết định theo tình hình.


Mỗi lần chuyển Trại từ Nam ra Bắc là Anh Em chúng tôi gặp đủ các hạng người từ Dân biểu , Nghị sĩ , Tổng Bộ trưởng và Đảng phái chính trị ..v.v..Tới Mỹ thì đọc đủ các Hồi ký của các Tướng lãnh và rất nhiều giới chức nêu trên . Đặc biệt là hồi ký của Tướng lãnh , Ông nào cũng nêu ra nhiều sự kiện liên hệ đến cuộc chiến , công trạng ,nhưng tuyệt đối không Ông nào có tội , ngọai trừ TT Thiệu nói Ông nhận trách nhiệm...tuy rằng Ông chưa hề viết một trang hồi ký nào . Có lẽ Ông cũng từng đọc hồi ký của nhiều người ,nhất là hồi ký của các Tướng lãnh viết để chạy tội , nên Ông không viết chăng , hơn nữa sự thật cũng đã có người nêu ra rồi chăng ? ... Tới nay, với nhiều tài liệu đã được giải mật và rất nhiều sự thật phơi bày đủ để giảm thiểu được thắc mắc của nhiều người .
     Niên trưởng Nguyễn đạt Thịnh là một nhà báo lớn , Ông có bề dày kinh nghiệm là một nhà báo quân đội trước đây , chắc hẳn Niên trưởng cũng đã đọc nhiều bài viết của nhiều nhân chứng sống liên quan đến cuộc chiến , nhất là bài viết của Đại Tá Trịnh Tiếu liên quan đến Tướng Phạm văn Phú và Quân Đoàn 2 đăng trong Web Một góc Trời. Nhân đây cũng xin Niên Trưởng cố gắng đọc thêm Bài viết của một nhân chứng sống nữa . Đó là bài viết của Bằng Phong Phạm vũ Bằng , Anh viết cho mùa Đại tang của Binh chủng TQLC ngày 23 tháng 3 năm 2011 nhan đề :
     Trình Tổng Thống...Tôi quyết định theo tình hình .
 ...............................................................................................................................
      Đúng vậy . Thưa Niên Trưởng Nguyễn đạt Thịnh.
      Tướng biên khu , khi tình hình khẩn cấp thì quyết định không cần lệnh Vua . Và cuộc triệt thoái tại Quân khu 1 là do Tướng Trưởng quyết định theo tình hình lúc đó . Và đây là phần kết luận bài viết của Bằng Phong Phạm vũ Bằng nhằm trả lời cho sự kiện bi thảm mà Cao xuân Huy gọi là tháng ba gãy súng .
    
    Orange County - California , 2010 .
   " Một buổi sáng mùa thu có nắng vàng rực rỡ , ba Anh TQLC già ngồi nhâm nhi ly nước trà tại Factory Cafê là Tôi , Trần như Hùng và Cao xuân Huy . Trên bàn thấy có một tờ báo cũ đăng bài  Tại sao Tôi bỏ QK 1, mà tác giả là Trung Tướng Ngô quang Trưởng , chúng tôi chia nhau đọc , Tướng Trưởng phủ nhận mọi tội lỗi của các Tướng lãnh QĐ 1 bị kỷ luật và đổ tội làm mất QK 1 cho Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu . Đọc xong tôi thắc mắc ( Tôi tức Phạm vũ Bằng ) hỏi hai đồng đội :
     _ Quân Đoàn 1 có quân số tương đương với địch , chưa đánh một trận nào cấp Trung Đoàn , mà lại tan hàng chỉ có trong năm ngày , Vậy mà khônh ai có lỗi ?
        Cao xuân Huy cười rồi nói :
     _ Chỉ có mấy thằng lính là có tội thôi .!!..
        Đây là câu nói cuối cùng Cao xuan Huy nói với Tôi , vì chỉ mấy tuần sau Anh đi lên tàu suốt để trở về Bãi Biển Thuận An tìm lại khẩu súng bị gãy tháng 3 năm 1975 ".

   Trình Tổng Thống... Tôi quyết định theo tình hình .

Bằng Phong Phạm vũ Bằng
Hôm nay là ngày phủ quốc kỳ cho Bác Sĩ Nguyễn Văn Thế, Y Sĩ Trung Tá TĐT/TĐ Quân Y Thủy Quân lục Chiến Nam VN trước năm 1975, Anh Thế mới qua đời ngày 2/21/11 vi biến chứng của một căn bệnh ngoài da rất thông thường mà anh bị lây từ bệnh nhân, tôi đến tiễn đưa và để chào vĩnh biệt vị chỉ huy khả kính rồi sửa soạn đi về…
Ra đến ngoài sân, tôi gặp toán Hầu Kỳ TQLC quân phục rằn ri với chiếc mũ xanh thân yêu, trong toán tôi gặp chị Thiếu Tá Huy Lễ, chị nói với tôi “chờ tí nữa Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC sắp đến.” Tôi vô cùng ngạc nhiên vì Thiếu Tướng TL ở tận tiểu bang Texas, mới hai tuần trước ông đã về đây thăm bệnh anh Thế, hôm nay ông lại về để tiễn biệt, tôi chợt nhớ đã 36 năm nay tôi chưa gặp ông nên vội đứng lẫn trong đám đông mặc thường phục để nhìn Tướng Tư Lệnh. Tôi không phải chờ lâu, chừng 10 phút sau thì ông đến, vẫn dáng người thư sinh, bước đi tự tin và cặp kính cố hữu, ông không thay đổi nhiều chỉ trừ mái tóc màu đen bây giờ đã nhuốm bụi thời gian! Tôi bồi hồi nhìn ông mà cả một dĩ vãng bi hùng tráng của Tháng Ba Gẫy Súng tại Quân Khu I hiện về, cái kỷ niệm này nhiều lần tôi đã cố quên đi để được sống bình yên, nhưng không làm sao đẩy được nó ra khỏi tâm trí …
Quân Khu I – Tháng 3/1975.
QK I là một vùng nằm tại cực Bắc của miền Nam Tự Do, QK này bao gồm 5 tỉnh và Thị Xã Đà Nẵng, các tỉnh của QK I là: Phía Bắc đèo Hải Vân có tỉnh Quảng Trị và Huế , phía Nam đèo có Thị Xã Đà Nẵng, và các tỉnhQuảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi. Nối liền Huế- Đà Nẵng là Quốc Lộ 1, song song với Biển Đông theo hướng Bắc-Nam, đi qua các đèo Phước Tượng, Phú Gia, Hải Vân. Bảo vệ QK I là Quân Đoàn I gồm 4 sư đoàn: SĐ1, SĐ2, SĐ3, SĐ/TQLC là SĐ Tổng Trừ Bị tăng phái cho QĐI, SĐI Không Quân, Hải Quân Vùng I Duyên Hải. ngoài ra còn có 4 Liên Đoàn Biệt Động Quân, các lực lượng Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát, các Liên Đoàn, Tiểu Đoàn, Đại Đội Chiến Xa, Pháo Binh, Biệt Cách Nhẩy Dù, Thám Báo…Quân số của toàn thể QĐI có thể trên 2 trăm ngàn chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng- Tư Lệnh Quân Khu I.
Vì địa thế đặc biệt của 2 tỉnh Quảng Trị- Huế cách Đà Nẵng bởi đèo Phước Tượng, đèo Phú Gia, đèo Hải Vân với 1 con đường duy nhất để thông thương là QL1, nên QĐI được chia ra:
-Quân Đoàn I Tiền Phương, chỉ huy bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi, bảo vệ 2 tỉnh phía bắc Hải Vân là Quảng Trị-Huế, bộ chỉ huy tọa lạc tại Huế, lực lượng gồm có SĐ1BB với 4 trung đoàn, LĐ147/TQLC với 4 tiểu đoàn tác chiến, 1 tiểu đoàn pháo binh, một đại đội Viễn Thám, Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, Liên Đoàn 14/BĐQ, các tiểu đoàn pháo binh hạng nặng, địa phương quân, nghĩa quân…Đây là một lực lượng hùng mạnh và thiện chiến nhất của QĐI.
-Quân Đoàn I, chỉ huy bởi Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh QĐI, bộ chỉ huy tọa lạc tại Đà Nẵng, bảo vệ các tỉnh phía Nam đèo Hải Vân, lực lượng gồm các đơn vị còn lại.
-Quốc Lộ 1 là con đường huyết mạch và duy nhất, nối liền Huế-Đà Nẵng, theo hướng Bắc-Nam, phía Đông sát với Biển Đông, phía Tây là núi Trường Sơn, QL1 có một địa thế hiểm trở rất dễ phòng thủ và rất khó cho địch tấn công, và được bảo vệ bởi một lực lượng tinh nhuệ, phía Tây Bắc SĐ1BB, giữa LĐ15/BĐQ, LĐ/258 TQLC(trong đó có tôi), Nam LĐ468/TQLC.
Về tình hình chiến sự tại QKI trước ngày 25/3/1975 thì phải nói là yên tĩnh, đã không có một trận đánh nào lớn hơn cấp trung đoàn, tuy nhiên địch đã bám sát quân ta để chờ thời cơ. Đại họa đã xẩy ra vào ngày 25/3/75, khi QĐI quyết định bỏ Huế- Quảng Trị để rút đạo quân tiền phương về bảo vệ Đà Nẵng, và Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Lâm Quang Thi quyết định (được sự chấp thuận của Tướng Ngô Quang Trưởng), rút quân bằng Hải Quân tại bãi biển Thuận An, thay vì lui binh theo đội hình trên QL1vì ông nghĩ rằng có một trung đoàn VC cắt đứt QL1tại đồi 500, Phú Lộc.
Tôi viết đoạn này dựa theo hồi ký của những TQLC còn sống sót từ pháp trường cát Thuận An năm xưa, các MX Nguyễn Thành Trí, Phạm Cang, Phạm Văn Tiền, Cao Xuân Huy… trong ngày 25/3/75 trên bãi biển Thuận An, ngoài gần 4000 TQLC của LĐ147/TQLC còn có lính bộ binh của SĐI BB, Thiết Giáp, Địa Phương Quân, Biệt Động Quân… Vì tôi là TQLC nên chỉ viết ra những gì liên quan đến LĐ147 thôi.
Ngày 24/3/75 lúc 6 giờ chiều các TQLC của LĐ147 được lệnh bỏ lại vũ khí cộng đồng và đạn dược cùng lương thực, mỗi quân nhân trang bị nhẹ và gọn, đoạn chiến với quân CSBV, đi bộ hỏa tốc trên 30 km từ Quảng Trị đến điểm tập họp là bãi biển Thuận An, Huế, vì tàu hải quân không chở được các chiến cụ nặng, nên dọc đường họ thấy vô số đại bác và chiến xa của các đơn vị bộ binh vứt đầy đường.
Ngày 25/3/75 lúc 8 giờ tối, tất cả LĐ147 đã tập họp tại bãi biển Thuận An, ngoài khơi là một lực lượng hải quân hùng hậu với nhiều LST(tàu lớn chở đươc nhiều ngàn quân) và LCM(tàu đổ bộ có thể vào sát bờ đón quân ra tàu lớn), nhưng không có một chiếc tàu nào vào đón! LĐ147 được lệnh chờ và chờ…Đại họa biến thành đại thảm họa khi Tướng Tư Lệnh Tiền Phương Lâm Quang Thi bỏ về Đà Nẵng ngày 25/3/75 (CTTCB trang 204-Hồ VK Thoại), như vậy, đạo quân tiền phương bị bỏ rơi trên bãi biển Thuận An đã mất đi cấp chỉ huy tối cao, cấp QĐ có thẩm quyền điều động Không và Hải Quân. Buổi chiều cùng ngày quân truy kích VC đuổi kịp, chúng chiếm các đồi cao, bao vây LĐ147 trên bãi cát trống trải, tấn công TQLC bằng đủ loại súng cộng đồng tối tân. Sáng ngày 26/3/75 có 1 chiếc LCU duy nhất vào đón được bộ chỉ huy LĐ147, thương binh, và chừng 200 TQLC. Quân VC càng ngày càng đến đông hơn để tấn công TQLC trên bãi cát, TQLC thì hết đạn, hết nước uống, hết lương thực, ngoài khơi các tàu hải quân vẫn vô cảm, không tiếp tế, không yểm trợ hỏa lực, im lặng vô tuyến. Sư Đoàn 1 Không Quân lúc đó còn nguyên vẹn nhưng đã đi đâu mà không có 1 chiếc phi cơ nào đến tiếp tế hay yểm trợ hỏa lực! Tối ngày 26/3/75, TQLC đã chiến đấu đến viên đạn và giọt máu cuối cùng, không chấp nhận đầu hàng hay bị bắt nên đã có rất nhiều TQLC tự sát tập thể bằng lựu đạn M26 và chuyện phải đến là rạng sáng ngày 27/3/75 thành phần còn lại của LĐ147/TQLC bị bắt. Trên đây chỉ là số phận của LĐ147 TQLC, số phận của các đơn vị khác thuộc Lực Lượng Tiền Phương QĐI chắc cũng không khá hơn, chỉ biết rằng cho đến ngày 27/3/75 toàn thể lực lượng Tiền Phương này đã tan, đây là nguyên nhân chính đưa đến sự tan rã QĐI hai ngày sau.
Có một điều làm tôi thắc mắc cho đến bây giờ là nếu các cấp lãnh đạo QĐI muốn rút đạo quân Tiền Phương này về để bảo vệ Đà Nẵng thì phải rút theo đội hình trên QL1 như vậy thì mới có thể mang về Đà Nẵng những thiết đoàn chiến xa và những tiểu đoàn pháo binh, những vũ khí cộng đồng v.v.. rất cần thiết cho sự phòng thủ, rút bằng Hải Quân nếu may mắn thì chỉ mang được quân thôi, còn chiến cụ nặng thì phải bỏ lại. Khi tôi bàn luận về cái lẽ hơn thua giữa ta và địch trên đoạn QL1 Huế-Đà Nẳng với Đại Tá Nguyễn Năng Bảo Lữ Đoàn Trưởng LĐ258/TQLC là LĐ có trọng trách bảo vệ đoạn QL1 này thì được ông cho biết rằng địa thế của đoạn đường này hiểm trở, dễ thủ mà khó công, phía Đông QL1 là biển nên địch chỉ có thể tấn công từ phía Tây QL, mà phía Tây QL thì đã có quân tinh nhuệ của ta đóng chốt sãn, hơn nữa đạo quân Tiền Phương QĐI rất thiện chiến và quen thuộc địa thế vùng này nên 1 trung đoàn địch sẽ không thể cản được, nếu ta may mắn dụ được chúng dùng nhiều sư đoàn để tấn công, thì đây sẽ là chiến trường quyết định tại QKI mà địa thế do ta lựa chọn, có lợi cho ta phòng thủ, bất lợi cho địch tấn công, hơn nữa địa điểm này xa với thành phố, ít dân, nên quân ta sẽ không bận tâm về dân nên có thể xử dụng hỏa lực tối đa mà không sợ sát hại thường dân. Còn địch thì sẽ không thể dùng dân vô tội để ẩn nấp, lấy lương thực và tin tức tình báo. Ta đang làm chủ trên trời và dưới biển, với sự tiếp tế dồi dào và hải pháo của Hải Quân, với hỏa lực khủng khiếp của Không Quân và những chốt của quân ta tại phía Tây QL, địch sẽ bị phản công mọi mặt, và phần thắng sẽ về quân ta. Ông cũng khẳng định đoạn QL1 Huế-Đà Nẵng cho đến ngày 25/3/75 trước khi TQLC và BĐQ được lệnh rút đi vẫn an toàn.
Tôi cũng đã điện đàm với Thiếu Tướng Bùi Thế Lân TL/TQLC và Đ/Úy Nguyễn Quang Đan, Chánh Văn Phòng Tướng TL, để hỏi về cái lệnh hành quân lui binh của LĐ 147/TQLC tại Thuận An ngày 25/3/75.
-Theo Thiếu Tướng TL, ông biết sẽ có cuộc lui binh của đạo quân Tiền Phương trong đó có LĐ 147/TQLC, nhưng vì LĐ147 đã được tăng phái cho QĐI Tiền Phương nên ông không có quyền điều động và hoàn toàn không biết đến kế hoạch rút quân cho đến khi Đ/Úy Đan trình lên ông bản sao của lệnh hành quân lui binh đã được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ký chấp thuận mà không tham khảo ý kiến nên ông hoàn toàn bị bất ngờ và khi đọc lệnh hành quân này, ông thấy có nhiều sơ hở nguy hiểm có thể đưa đến sự tan rã toàn diện của đạo quân tiền phương, ông đã gọi Trung Tướng Ngô Q. Trưởng để yêu cầu hoãn lại cuộc lui binh, nhưng không kịp vì cuộc lui binh đang tiến hành.
-Theo hồi ký của Đại Tá Nguyễn Thành Trí, lúc đó là Tư Lệnh mặt trận Tây Bắc Huế thuộc đạo quân Tiền Phương QĐI, thì lệnh hành quân lui binh này được soạn thảo bởi Trung Tướng Lâm Quang Thi tại Thuận An vào trưa ngày 24/3/75 và được Đại Tá Lê Ngọc Hy, Tham Mưu Trưởng QĐI TP mang về Đà Nẵng trình cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng TL QĐI, được Tướng Trưởng ký chấp thuận lúc 5 giờ 30 chiều 24/3/75.(TT2 TQLC trang 537-538)
-Theo Đ/Úy Nguyễn Quang Đan thì vào một buổi sáng tháng Ba, anh không nhớ ngày, (theo tôi thì có lẽ là sáng 25/3/75) anh nhận được bản sao của lệnh hành quân triệt thoái QĐI Tiền Phương đã được Tướng Trưởng ký, anh vội vã đưa cho Tướng Lân, đọc xong ông than: “ĐM thế này thì chết lính tao rồi!”, sau đó ông ra lệnh cho anh bay ra Thuân An đưa cho Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ147 một lá thư kèm theo lời dặn “Tìm ra QL1 mà đi” rồi Tướng TL đi thẳng lên Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn. Tiếc thay Đ/Tá Lương đã không nghe lời.
Ngoài ra tôi còn được biết trong khi LĐ147/TQLC vị vây hãm tại bãi biển Thuận An, vì chỉ là Tư Lệnh của một sư đoàn tăng phái cho QĐI, Tướng Lân không có quyền điều động hải-lục-không quân của QĐI để tiếp cứu LĐ147/TQLC, quyền này nằm trong tay của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, TL QĐI và Trung Tướng Lâm Quang Thi, TLP QĐI, nhưng hai vị tướng này đã không làm gì để cứu đạo quân Tiền Phương bị bỏ rơi này.
Quốc Lộ 1 Huế- Đà Nẵng,Tháng 3-1975.
Ngày 18/3/75, Lữ Đoàn 258 TQLC của Đại Tá Nguyễn Năng Bảo di chuyển từ Quảng Trị tới đèo Phước Tượng, nằm giữa Huế-Đà Nẵng với nhiệm vụ rõ ràng:
-Bảo vệ lưu thông trên QL1.
-Chờ đợi và bảo vệ đạo quân Tiền Phương QĐI rút từ Huế-Quảng Trị về Đà Nẵng.
Tôi đã có mặt tại LĐ này với nhiệm vụ Y Sĩ điều trị của ĐĐ Quân Y 258. Từ ngày 18/3/75 đến ngày 23/3/75 dân tị nạn Huế, Quảng Trị đi đầy đường chạy về Đà Nẵng, CSBV muốn tái diễn một Đại Lộ Kinh Hoàng năm 1972, nhưng thất bại vì phía Tây QL có quân ta bố trí, chúng không thể xông tới gần QL dùng súng bắn thẳng tàn sát dân, chúng chỉ dùng đại bác đặt trong núi Trường Sơn bắn vào dân tị nạn, nhưng đa số đạn đại bác đã nổ trên vách núi hai bên QL.Từ ngày 23,24/3/75, có thể tình báo của chúng biết rằng Quân Đoàn I Tiền Phương sẽ rút về Đà Nẵng và có thể chúng không có đủ quân để ngăn chận, chúng chơi trò “rung cây nhát khỉ, khua trống gõ mõ” bằng cách mang những đơn vị nhỏ của chúng liều mạng đánh vào tuyến phòng thủ của các đơn vị ta, chúng bị đánh bại nhanh chóng, bỏ trốn vào trong núi phía Tây, tuy nhiên đài phát thanh của chúng lại rêu rao là đã “diệt gọn” LĐ258/TQLC và LĐ15/BĐQ, và đang kiểm soát đèo Phước Tượng. Đau đớn cho quân ta, đòn tâm lý tuyên truyền này đã thành công! Quân ta đã bỏ khế hoạch lui binh trên QL1 để rút lui bằng Hải Quân theo ngả Thuận An, và đại thảm họa đã xẩy ra như nói ở trên. Ôi! Mấy ngàn năm trước, Tôn Tử đã nói: “Binh là cái đạo dối trá” mà đau đớn thay, địch thì quá gian dối còn ta lại quá thật thà!
 

     
Sáng ngày 25/3/75 LĐ 258 TQLC được lệnh của Trung Tướng Tư Lệnh QĐI Ngô Quang Trưởng bỏ đèo Phước Tượng rút về Đà Nẵng, LĐ15/BĐQ (đóng bên cạnh LĐ258TQLC) chia làm hai, một phần đi hướng Bắc về Huế an toàn, còn một phần đi theo TQLC về phía Nam, đi qua Phú Lộc chúng tôi không thấy một tên VC nào mà chỉ thấy một cánh quân của LĐ 468 TQLC chỉ huy bởi Thiếu Tá Trần Quang Duật, bạn tôi! Sau khi qua Phú Lộc, chúng tôi được xe Quân Vận chở về Đà Nẵng an toàn cùng ngày…
Đà Nẵng, Tháng 3-1975.
Chúng tôi về đến Đà Nẵng khoảng 8 giờ tối 25/3/75, Đà Nẵng là nơi phồn hoa đô hội mà trong những ngày tháng hành quân dài tại rừng núi của tỉnh Quảng Trị, tôi chỉ mơ ước có được một lần trở về, dù cho chỉ vài giờ để thưởng thức một ly café thơm ngọt và ngắm các cô hàng café xinh đẹp, thành phố trong mộng của tôi thì nay đang chết! Nhà cháy, xe cháy, khói lửa bao chùm thành phố. Dưới lòng đường, trên hè phố la liệt người tị nạn không một mảnh chiếu để nằm! Tôi đã về đây trong cảnh hoang tàn đổ nát của thành phố thương yêu, hương vị thơm ngọt của café thì chẳng được nếm mà chỉ có vị cay đắng của hai dòng nước mắt đau thương!
Sáng ngày 26/3/75, tôi được lệnh chỉ huy một toán QY để yểm trợ cho một đơn vị TQLC đánh chiếm lại đèo Phước Tượng, đến trưa thì lệnh này bị hủy bỏ, tôi nhận được lệnh khác, mang y tá và xe cứu thương ra bến Thương Cảng Đà Nẵng để đón quân của LĐ147/TQLC. Cả một LĐ gần 4000 quân mà bây giờ chỉ về được trên một chiếc LCU duy nhất, gồm Bộ Chỉ Huy LĐ, khoảng 100 thương binh trong đó có Đại Tá Nguyễn Thế Lương, và khoảng 200 binh sĩ, nhìn thấy họ tôi mới thấm thía câu nói của người xưa “chán chường như lũ tàn binh lìa thành”.
Trong cuốn hồi ký “25 Năm Thế Kỷ” Trung Tướng Lâm Quang Thi có viết 90/100 TQLC của LĐ147 đã về được Đà Nẵng, điều này sai với sự thật. Ngày 27/3/75, tôi lên Trung Tâm Hành Quân Sư Đoàn gặp Thiếu Tá Trần Vệ, Trung Tâm Trưởng Hành Quân Sư Đoàn thì được biết nhiều tin xấu: Toàn bộ LĐ 147/TQLC đã bị địch bắt và đạo quân Tiền Phương đã hoàn toàn tan rã. Quảng Ngải đã thất thủ và cuộc lui binh của SĐ2BB xẩy ra trong hỗn loạn (mặc dù không có trận đánh lớn nào) chỉ có một nửa SĐ2BB về được Đà Nẵng. Bộ Tư Lệnh QĐI tại Đà Năng bị bỏ trống, Thiếu Tá Trần Vệ gọi QĐI không ai trả lời, anh phải đích thân lên QĐ thì không thấy một bóng người. Như vậy tính tới ngày 27/3/75, lãnh thổ QKI chỉ còn có Thị Xã Đà Nẵng. Ta đã mất gần hết QKI mà không có một trận đánh lớn cấp trung đoàn nào! Tôi đau đớn, buồn rầu, lo lắng trở vê tiểu đoàn Quân Y.
Sáng ngày 28/3/75, tôi được gọi trình diện Y Sĩ Trung Tá Nguyễn Văn Thế, TĐ Trưởng TĐ Quân Y SĐ/TQLC, anh Thế mặt mũi bơ phờ lo lắng, trên bàn anh là tập hồ sơ quân bạ của tôi, anh than phiền là Bệnh Viện Quân Y Dã chiến của SĐ/TQLC tại phi trường Non Nước đã quá tải, số thương binh đã gần gấp đôi sức chứa của bệnh viện mà QĐI không cho phương tiện để tản thương về BV Lê Hữu Sanh, Thủ Đức, nếu có đụng trận thì sẽ không có chỗ cho thương binh, anh hỏi vê chuyên khoa của tôi, khi biết rằng tôi đã theo thầy Nguyễn Phước Đại hai năm để học vể giải phẫu xương với tư cách nội trú ủy nhiệm tại Bệnh Viện Đô Thành thì anh rất vui vẻ rủ tôi đi khám bệnh cho Đại Tá Nguyễn Thế Lương, LĐT/LĐ147TQLC, Đại Tá Lương bị thương tại Thuận An vì miểng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 tại đầu gối phải, vết thương sạch sẽ và đã được khâu cẩn thận, có điều miểng đạn thì chưa được lấy ra được vì nó nằm cạnh dây thần kinh và động mạch quan trọng, khi anh Thế hỏi ý kiến thì tôi đề nghị nên tăng lượng trụ sinh tối đa để ngừa nhiễm trùng xương và tôi có thể lấy miểng đạn ra nếu có đủ dụng cụ, anh Thế vui vẻ và ra lệnh:
-Từ nay ĐT Lương là bệnh nhân của toi (anh Thế tốt nghiệp trường trung học pháp Jean Jacques Rousseau nên có thói quen gọi chúng tôi là toi, xưng moi), còn số bệnh nhân hiện tại của toi, moi sẽ bàn giao cho bác sĩ khác. Tôi quay qua Đại Tá Lương an ủi:
-ĐT yên tâm, tôi sẽ lấy miểng đạn ra an toàn, nếu cần gì xin ĐT cho tôi biết.
Tôi đề nghị với anh Thế:
-Xin Trung Tá liên lạc với Tổng Y Viện Duy Tân, mượn phòng mổ để tôi mổ càng sớm càng tốt, vì để lâu không ổn, có thể bị nhiễm trùng xương thì mình phải cưa chân. Anh Thế lắc đầu buồn bã:
-Moi mới liên lạc khi sáng, họ cũng quá tải như mình, họ đề nghị Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh.
Chiều ngày 28/3/75, lúc khoảng 6 giờ 30 chiều, Đại Úy Nguyễn Quang Đan lái xe đến TĐ Quân Y đón tôi ra sân trực thăng của SĐ, tại đây tôi thấy anh Thế đang đứng với Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC Bùi Thế Lân, ĐT Lương thì ngồi dưới đất, tôi chưa kịp chào thì anh Thế đã tiến tới ra lệnh:
-Toi mang ĐT Lương quá giang tàu hải quân đến Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh để mổ, còn moi thì phải đi họp để xin hải quân cung cấp một chuyến tàu di tản thương binh của mình về Saigon hay Vũng Tàu.
Tôi không biết nói gì, chỉ đi theo đoàn người lên trực thăng, tại hai bên cửa trực thăng tôi thấy mấy người nhái của TQLC cùng đi. Trực thăng bay chừng 15 phút thì đáp xuống Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, tại đây có sẵn 2 trực thăng đang đậu ,khi máy trực thăng vừa tắt, tôi nghe được tiếng ôn ào của nhiều ngàn người dân tị nạn đang chờ tàu trên khoảng đất trống kế bên bãi đáp trực thăng, một sĩ quan Hải Quân dáng điệu nhu mì lễ phép tiến ra chào Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC, anh nói Trung Tướng Trưởng mới đến, tay chỉ chiếc trực thăng bên cạnh, còn Phó Đề Đốc Thoại thì đang bận họp, sau đó anh hướng dẫn chúng tôi vào một bunker bên cạnh sân cờ, cái bunker này được xây bằng nhiều lớp bao cát kiên cố, bên trong có một cái bàn dài và quanh bàn là một hàng ghế còn bỏ trống, tại góc phòng có mấy chiếc điện thoại, đây là TOC Hành Quân của Hải Quân, có lẽ chúng tôi đến sớm nên chưa có ai mà chỉ có Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đang đứng chờ. Hai vị tướng trao đổi chuyện với nhau một lúc rồi cả hai đi về phía mấy cái điện thoại, trong lúc hai ông tướng loay hoay bên máy điện thoại, tôi thấy Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại cùng mấy sĩ quan Hải Quân bước vào phòng, tướng Thoại bước đến bên Tướng Trưởng… Tướng Trưởng bốc máy điện thoại thứ nhất gọi mấy lân mà không được, ông dùng máy thứ hai thì có người trả lời, ông nói chuyện với người trong máy một lúc lâu, nét mặt lo âu, tôi cũng đứng trong phòng nhưng vì phép lịch sự nên không nghe và cũng không muốn tìm hiểu người bên kia đầu dây là ai, cho đến khi Đại Tá Lương, ngồi dưới đất, gần chỗ Tướng Trưởng đang nói điện thoại, lên cơn đau và cầu cứu, tôi đi tới đưa thuốc thì cũng là lúc tôi nghe tướng Trưởng nói từng câu rõ ràng với người bên kia máy:
-Trình Tổng Thống, tôi quyết định theo tình hình.
Nói xong, Tướng Trưởng cúp máy, ông đi qua lại trong phòng, đăm chiêu suy nghĩ một lúc rồi ghé tai Tướng Lân nói thầm mấy câu làm ông tướng này cũng đăm chiêu suy nghĩ buồn bã không kém*. Một lát sau Tướng Lân quay qua nhắc Tướng Trưởng là phải mời Tướng Hinh, Tư Lệnh SĐ3BB đến họp.
(*Trong bữa ăn tối ngày 25/2/2011 do Y Sĩ Thiếu Tá Tường, TĐP/TĐQY/TQLC khoản đãi tại Little Saigon, tôi gặp lại Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và may mắn đã được ông giải đáp những thắc mắc của tôi từ 36 năm nay trong câu trả lời của Tướng Trưởng với Tổng Thống. Thiếu Tướng Lân cho tôi biết người mà Tướng Trưởng nói chuyện điện thoại với tối hôm 28/3/75 là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tướng Lân xác nhận câu nói “Trình Tổng Thống, tôi quyết định theo tình hình” và Tướng Trưởng đã nói thầm vào tai ông: “Mình rút đêm nay”. Thiếu Tướng Tư Lệnh TQLC còn cho biết: “Ông ấy bối rối đến nỗi quên cả mời Tướng Hinh, SĐ3BB, tôi phải nhắc ông ta, khi Tướng Hinh đến để nhận lệnh bỏ Đà Nẵng trong đêm thì ông xin Tướng Trưởng cho 4 ngày đễ sửa soạn nhưng bị từ chối”. Tướng Lân nói tiếp: “Sự thực thì đây không phải là một phiên họp, các tướng được gọi đến để nhận lệnh bỏ Đà Nẵng chứ không có bàn cãi gì hết”. Tôi nghĩ Thiếu Tướng Lân rất có lý vì dọn nhà thì cũng phải cần mấy ngày, còn dọn cả một QĐI “ngay đêm nay” thì còn có gì để bàn cãi, chỉ có nước “bỏ của chạy lấy người” mà” tự thoát”, vậy thì “buổi họp” nầy không cần thiết, thay vào đó Tướng Trưởng chỉ cần dùng điện thoại ra lệnh, như vậy thì ông đã tránh cho những tướng dưới quyền những nguy hiểm mà tôi sẽ kể sau. Một điều tôi không thể hiểu được là tại sao Tướng Trưởng lại phải vội vã như vậy để gây ra thảm kịch ngày 29/3/75 tại Đà Nẵng? Đại quân của địch thì chưa thấy, trong thành phố Đà Nẵng chỉ có đặc công và tiền sát Pháo Binh địch trà trộn trong dân tị nạn, chúng chỉ có khả năng pháo kích quấy rối).
Tôi chợt nhớ nhiệm vụ của tôi là tìm tàu hải quân mang ĐT Lương đến Cam Ranh để mổ vết thương cho ông nên vội bỏ phòng họp đi ra cầu tàu để tìm tàu, tại đây tôi chỉ thấy cảnh “bờ trơ cõi vắng nước còn tăm không” trong ánh trăng phản chiếu sóng biển rì rầm, tàu thì chẳng có mà người cũng không! Tôi đi ngược lại căn cứ hải quân vắng tanh, chẳng thấy một quân nhân hải quân nào, căn cứ này có lẽ đã bị bỏ trống.
Trở lại bãi trực thăng, nhìn qua hàng rào, tôi thấy nhiều ngàn dân tị nạn chen chúc nhau trên bãi đất trống, chỉ cách hầm TOC Hải Quân, nơi các tướng sẽ họp khoảng 100m, tôi rùng mình tự hỏi trong số người này có bao nhiêu đặc công và tiền sát pháo binh địch trà trộn? Theo ánh đèn vàng, tôi tìm đến bệnh xá hải quân thì gặp một ông Trung Sĩ y tá, thấy tôi là bác sĩ ông vội đứng nghiêm chào kính, tôi được biết người chỉ huy bệnh xá là bác sĩ Phước, bạn tôi, nhưng bác sĩ Phước mới ra ngoài nên tôi phải chờ, khi ông Trung Sĩ biết tôi đang tìm tàu để về Cam Ranh thì ông nhìn trước nhìn sau rồi ghé tai tôi nói:
- Lúc 5 giờ chiều cả căn cứ đã bỏ đi gần hết, chỉ còn một số người Phó Đề Đốc chỉ định ở lại, hiện giờ không có chiếc tàu nào, chiếc cuối cùng đã chở ông Lãnh Sư Mỹ đi rồi.
Tôi nhắc ông trung sĩ phải sẵn sàng súng ống vì mấy ông tướng đến họp có thể lôi kéo bọn đặc công VC tấn công căn cứ. Ngồi chờ một lúc, tôi nghe thấy nhiều tiếng trực thăng lên xuống nên vội đi trở lại hầm TOC, tôi thấy Đại Úy Đan, bình thường không bao giờ đeo súng, hôm nay anh đeo một khẩu tiểu liên Uzi bên hông, dáng điệu nghiêm trọng, tôi chợt nghĩ đến bữa tiệc “Hồng Môn”(Trên 4000 năm trước, thời Hán-Sở tranh hùng bên Tàu, Sở Bá Vương đã mở bữa tiệc tên là Hồng Môn mời Hán Đế Vương đến dự để giết đi, việc không thành vì Hán Đế Vương đã đề phòng trước) nên vội kiểm soát lại khẩu Colt 45 bên hông, nạp một viên đạn lên nòng rồi bước vào phòng họp.
Trong phòng lúc nay đã đầy người, Tướng Trưởng ngồi đầu bàn, bên phải là Tướng Thoại, phía bên trái là Tướng Lân, kế bên là Tướng Hinh, sau chót là Trung Tướng Lâm Quang Thi, bên hàng ghế đối diện, cạnh Tướng Thoại là mấy vị sĩ quan hải quân và bộ binh, vì họ ngồi xoay lưng về phía tôi nên không nhận diện được. Vô tình tôi lại đứng đối diện với Tướng Thi, ông to lớn, tôi nhận ra ông vì bảng tên trên ngực áo bên phải, bên trái phía trên trái tim là một huy hiệu nắm đấm với mấy chấm phía trên, đứng sau ông là một sĩ quan cận vệ cũng to con không kém và cũng đeo huy hiệu nắm đấm bên trái, như vậy thì Tướng Thi là một cao thủ võ lâm khiến tôi càng chăm chú nhìn trong đầu tự hỏi ông là Tư Lệnh Phó QĐI, tại sao không ngồi cạnh Tướng Trưởng để chủ tọa cuộc họp mà lại ngồi tận cuối bàn với dáng điệu bồn chồn bối rối? Tướng Hinh thì đang “mặc cả” với Tướng Trưởng từng giờ để cố cứu SĐ3BB.
Vì thấy mọi việc tốt đẹp, tôi bước khỏi phòng họp lúc 8 giờ 40 tối thì được biết anh em người nhái TQLC đã mang ĐT Lương qua cái bunker bên cạnh, tôi qua thăm, cho ông biết không có tàu về Cam Ranh. Sau đó tôi ra bãi trực thăng ngồi chờ. Chưa hút hết nửa điếu thuốc, tôi thấy một tia lửa bùng lên giữa đám dân tị nạn trên mảnh đất trống cạnh bãi trực thăng, trong ánh lửa màu cam tôi thấy thân người và nhưng phần cơ thể tung lên, tiếp theo là một tiếng nổ đinh tai. Theo phản ứng của một chiến binh, tôi nằm sát mặt đất, địch bắt đầu pháo kích lúc 9 giờ tối, nhịp độ 3-4 trái một phút, vì đã quen với chiến trận tôi nhận ra tiếng nổ quen thuộc của đạn đại bác 130 ly, nhưng không nghe thấy tiếng depart, đa số đạn nổ trên khoảng đất trống chỗ dân tị nạn. Giữa những tiếng nổ, tôi nghe tiến lẻng kẻng của mảnh đạn va chạm vào mái tole, và tiếng kêu khóc của dân tị nạn, hình như tiền sát viên VC ở đâu đây. Tôi thấy đạn đại bác từ từ kéo vào bên trong căn cứ, và chính xác, một trái đạn nổ ngay bãi trực thăng, làm hai trực thăng của Tướng Lân và Tướng Trưởng xẹt lửa, khoảng 10 giờ 30 tối, cường độ pháo kích tự nhiên giảm xuống, đạn pháo rơi tản mác ngoài căn cứ, theo người nhái TQLC Nguyễn Bác Ái thì địch đặt pháo tại hường đèo Hải Vân vì anh thấy những tia lửa nháng ra từ phía đó và lý do địch giảm pháo kích vì ta bắn chết một và bắt sống hai tiền sát VC.
Khoảng 10 giờ 40 tối tôi thấy Trung Tướng Lâm Quang Thi cùng một sĩ quan Hải Quân đi vội vã ra bãi trực thăng, lên một trực thăng cuối bãi, chiếc trực thăng bay lên rất nhanh ra khỏi căn cứ, sau này tôi được biết ông bay ra Soái Hạm HQ5, như vậy ông là vị tướng thứ hai rời Đà Nẵng bằng máy bay, vị đầu tiên là Thiếu Tướng Hoàng Văn Lạc, TLP/QĐI xin đi về Saigon ngày 26/3/75 rồi không trở lại (CTTCB, trang 273-274, Hồ VK Thoại). Các tướng khác đều phải lội ra chiến hạm sáng ngày 29/3/75 ngoại trừ Tướng Điềm của SĐI/BB bị tử nạn.
Bãi đất trống bên cạnh bây giờ vắng tanh, không thấy một người tị nạn nào, nhìn vào căn cứ HQ tôi thấy khoảng 20 người binh sĩ và sĩ quan HQ đang tụ tập bàn tán quanh Tướng Thoại, như vậy thì cả căn cứ chỉ còn ngần ấy người, bên TQLC thì có khoảng 10 người, tôi nhìn về phía cột cờ thì thấy Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, dáng đứng xiêu đổ lặng lẽ hút thuốc lá, trông ông như người vừa thua một canh bạc cháy túi! Thấy ông không mũ sắt, không đeo súng như mọi lần trong khi pháo của địch đang rải rác rơi, tôi nói một người sĩ quan bộ binh đứng bên cạnh trở lại phòng họp lấy cho ông mũ sắt.
Bấy giờ, tất cả chúng tôi đều biết địch chỉ tạm thời giảm pháo kích, chắc chắn chúng sẽ pháo kích trở lại và có thể tấn công căn cứ bằng đặc công, chúng đã biết trong căn cứ có nhiều tướng lãnh vì có nhiều trực thăng lên xuống và rất có thể tiền sát viên của chúng đã báo cáo (một tên tiền sát bị phát giác cùng với đầy đủ máy truyền tin trong căn cứ chỉ cách phòng họp chưa đến 50m). Nơi an toàn nhất bây giờ có lẽ là căn cứ Non Nước của TQLC và chúng tôi sửa soạn đi về, hai anh phi công leo lên trực thăng của Tướng Lân, loay hoay một lúc rồi chạy xuống báo cáo, Đ/Úy Đan leo lên trực thăng đề máy mấy lần không được, thì ra trực thăng đã bị hư vì miểng đạn pháo, trực thăng của Tướng Trưởng cũng cùng số phận.
Chúng tôi lại nhận thêm hai tin xấu nữa, đó là chiếc xe duy nhất của Thiếu Tướng Lân đã bị trúng đạn pháo không chạy được và chiếc tàu dành cho Tướng Thoại chở tên Lãnh Sự Mỹ đi lúc chiều rồi không trở lại, ngoài cầu tàu thì không có một chiếc tàu nào, vậy là chúng tôi đã hết đường về BTL/SĐ tại căn cứ Non Nước.
Đang tuyệt vọng thì khoảng 11 giờ đêm một chiếc trực thăng không biết từ đâu xà xuống, chúng tôi đã tưởng có cứu tinh thì thấy Tướng Trưởng và người tùy viên leo lên, rồi trực thăng vội vã cất cánh, thế là chưa kịp mừng thì …!!!
Bây giờ nếu gọi TQLC từ căn cứ Non Nước đến đón là điều không tưởng, với tình trạng kẹt đường vì người tị nạn thì TQLC chỉ có cách chạy bộ tới đây như vậy phải mất mấy giờ thì đã quá trễ vì nơi đây đang là một trái bom nổ chậm. Tướng Thoại đi qua lại kiểm soát các phòng trong căn cứ, sau đó ông vào phòng truyền tin, một lúc sau bước ra mặt buồn hiu, ông cùng với các sĩ quan Hải Quân đứng bàn bạc một lúc rồi họ quyết định bỏ căn cứ, TQLC chúng tôi không còn lựa chọn nào khác, phải đi theo họ mặc dù không biết đi về đâu! Chúng tôi đi qua bãi đất trống mà dân tị nạn tụ tập trước khi bị pháo, trên mặt đất đầy những vũng máu và các mảnh cơ thể nạn nhân! Để tránh lộ hình tích trên bãi đất trống trải, làm mồi ngon cho hỏa lực địch, chúng tôi vòng xuống men theo phía bờ biển, dưới ánh trăng sao, chúng tôi vượt qua những tảng đá trơn ướt lớn như những chiếc xe Jeep hoặc GMC, chỉ tội mấy anh người nhái TQLC phải thay phiên nhau cõng ĐT Lương.
Vừa ra khỏi căn cứ Hải Quân khoảng một km, thì địch bắt đầu pháo kích đợt hai, lần này cường độ gấp 10 trước, tiếng nổ liên tục không phân biệt được, căn cứ Hải Quân bị phủ lửa, có lẽ không một sinh vật nào có thể sống được trong đó! Không biết ông bạn “vàng” Phước của tôi có còn trong căn cứ này không? Vì Hải Quân không ai mang theo máy PRC25, nên Tướng Thoại phải mượn máy của TQLC liên tục gọi tàu vào đón, nhưng không có ai trả lời! Tới Spanish Beach, chúng tôi đi vòng lên núi Sơn Trà, nơi đây không có đường, phải vạch bụi cây mà đi, tới lưng chừng núi thì có một tảng đá lớn bằng một tòa nhà cản lối, chúng tôi ngồi chờ để anh em người nhái TQLC tìm chỗ thấp có thể qua được.
Phó Đề Đốc Thoại ngồi xổm đưới đất liên tục gọi máy PRC25 cầu cứu mà không có hồi âm, tôi chợt nghĩ mình đang là nhân chứng của một sự kiện có một không hai trong quân sử:
“Một ông Phó Đề Đốc HQ có dưới tay nhiều trăm chiến thuyền lớn nhỏ không xa đây, vậy mà ông đã phải khản cổ cầu cứu suốt 3 tiếng không ai trả lời! Một ông Tướng TQLC có trong tay cả chục ngàn quân thiện chiến nay bị lâm vào bước đường cùng, ngay trong thành phố Đà Nẵng, với khoảng mười thuộc viên chỉ vì một buổi họp không cần thiết và sai chỗ”.
     
Theo tin tình báo thì VC sẽ pháo kích căn cứ Hải Quân lúc 4 giờ sáng 29/3/75 như vậy thì địch đã có đầy đủ yếu tố để pháo kích căn cứ tối hôm 28/3/75 và cuộc họp cao cấp của các Tướng Lãnh QĐI đã diễn ra dưới họng đại bác 130 ly của địch, chúng pháo sớm hơn vì thấy các tướng lãnh đến họp. Khi mới đến căn cứ lúc 7 giờ tối 28/3/75, tôi thấy nhiều ngàn dân tị nạn đang tụ tập trong căn cứ, chỉ cách nơi họp khoảng 100m, với cái nhìn của một người lính, tôi đã nghĩ nơi đây không an toàn vì đặc công và tiền sát VC đã trà trộn, Trung Tướng Tư Lệnh QKI hoặc chính các phụ tá hay bộ tham mưu chắc chắn phải biết điều sơ đẳng này để trình lên Tư Lệnh, có lẽ vì sự vắng mặt của thuộc hạ, thiếu báo cáo tình hình khiến ông TL/QĐ vẫn tiếp tục buổi họp tại đây thay vì tại căn cứ Non Nước, nơi đang được TQLC bảo vệ cẩn mật.
Nhìn xuống căn cứ HQ, lửa cháy rực một góc trời, tiếng đại bác 130 ly liên tục nổ như tiếng sấm rền không dứt, tôi nghĩ bọn VC đang làm một việc vô ích vì căn cứ đã bị bỏ trống, nếu lúc 9 giờ tối 28/3/75 thay vì pháo kích, chúng chỉ cần dùng một toán đặc công tấn công vào căn cứ thì không biết chuyện gì sẽ xẩy ra cho các tướng lãnh của QĐI, và bây giờ nếu đặc công VC đi lên núi thì chúng tôi sẽ lâm nguy.
Đang mải mê suy nghĩ, tôi nghe một giọng nói oang oang quen thuộc của Bác Sĩ Phước, theo tiếng nói tôi tìm ra anh, trong quân phục hải quân màu xanh, đầu đội nón sắt, vai đeo M16 cùng với một giây đạn, tôi đến bên nói đùa:
- Phước, mày om sòm quá, hồi nẫy có mấy thằng đặc công VC hỏi tao mày đi đâu vắng nhà, tao không nói, nên chúng nó ôm AK47 chạy lên núi tìm mày đó. Phước quay lại nhìn tôi:
-Trời đất, hóa ra là chú mày, hồi nẫy y tá nói có một sĩ quan TQLC súng đạn đầy người đến tìm làm tao đang lo…
-Thôi, đừng mất thì giờ, mày chỉ đường cho TQLC tụi tao đi.
-Tao đâu có biết, tao mới từ Vùng 4 đổi qua được mấy tuần, hồi chiều họ bỏ đi nhưng tao ở lại vì ông tướng cần bác sĩ.
Mấy anh người nhái TQLC tìm được một đoạn núi đá thấp chừng 2m, chúng tôi khó khăn lần lượt vượt qua đến một đoạn đường đi dễ hơn, theo tiếng sóng, chúng tôi đến một bãi biển hoang vắng toàn đá phía trên Spanist Beach, ngoài khơi chúng tôi thấy tàu HQ đang chạy… Tướng Thoại đã quá mệt mỏi nên nhờ TQLC Nguyễn Thế Thụy, âm thoại viên của Tướng Lân, tiếp tục gọi dùm.
Khi theo Tư Lệnh TQLC đến căn cứ HQ họp thì Thụy, âm thoại viên cửa TL đã thuộc gần hết những tần số giải tỏa đặc lệnh truyền tin, trong đó có cả của HQ, nên khi Tướng Thoại nhờ liên lãc thì anh thành thuộc “bẻ cổ” máy qua tần số giải tỏa rồi cất tiếng gọi. Như một phép lạ, trong máy có tiếng trả lời, Thụy vội trao ống liên hợp cho Tướng Thoại để nói chuyện với Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy*…
(* gần đây tôi có nhận được điện thư của Thiếu Tá Hy, vị cứu tinh đã tìm ra chúng tôi, thì được biết anh thuộc một đơn vị Hải Quân di tản từ Thuận An về Đà Nẵng, khi địch pháo kích đợt hai, anh ra lệnh cho đơn vị rời vịnh Đà Nẵng, di chuyển đến Spanish Beach để tránh pháo, lúc đó Thiếu Tá Hy đang ở trên ghe Yabuta của Duyên Doàn 12, khoảng 3 giờ sáng ngày 29/3/75. Trong lúc địch pháo kích đợt 2, anh gọi máy đến Trung Tâm Hành Quân Vùng I Duyên Hải không có ai trả lời, vô tình anh quay qua tần số giải tỏa nên nghe đươc lời kêu cứu, anh ra lệnh cho ghe đi vào).
Chuyến đầu tiên chính anh Hy đứng ở mũi ghe kéo Tướng Thoại, Tướng Lân lên, cùng đi trong chuyến này có Đại Tá Lương, và một số sĩ quan, ghe Yabuta là một loại ghe nhỏ không thể đón hết mọi người nên tôi và Đ/Úy Đan ở lại vì chúng tôi muốn chờ anh em TQLC lên thuyền hết rồi mới đi. Tuy ân hận 5 phút vì không đi theo bệnh nhân của mình nhưng tôi cũng yên tâm vì đã đưa cho Đại Tá Lương những thuốc ông cần. Lúc đó tôi và Đ/Úy Đan đứng trên một mỏm đá riêng biệt với nhóm người còn lại khoảng 20 người gồm HQ và TQLC, Thiếu Tá Hy trở lại thêm 3 lần nữa đón hết đám người này, chuyến cuối cùng anh phải mượn một chiếc ghe đánh cá của dân vì ghe Yabuta của anh thiếu nhiên liệu.
Theo Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Hy, việc anh làm đêm hôm đó là tự nguyện thúc đẩy bởi tình đồng đội. Quả thật đây là một gương can đảm và tình đồng đội cao đẹp mà tôi đã được cái vinh dự chứng kiến từ đầu đến cuối.
Khi trời đã sáng, trên bờ biển hoang vắng chỉ còn có tôi và Đ/Úy Đan nên nó càng hoang vắng hơn, chúng tôi đứng trên mỏm đá chênh vênh, nhìn về phía căn cứ HQ, địch đã ngưng pháo nhưng khói lửa vẫn bốc cao, sóng thủy triều đang lên che phủ mỏm đá làm chúng tôi bị ướt đến đầu gối, tôi thật sự “lạnh cẳng” theo cả hai nghĩa, nhìn qua Đan thì thấy anh đang nhìn tôi vô cảm, chúng tôi chỉ còn chờ có hai chuyện, VC đến trước thì chúng tôi chết, ghe Hải Quân tới thì chúng tôi sống, chợt nghĩ sống hay chết thì giây phút này cũng là giây phút cuối cùng tôi được nhìn thành phố Đà Nẵng thân yêu. Biển vẫn xanh, sóng vẫn rì rầm một điệu nhạc muôn thủa làm dịu lòng người. Bình minh vừa ló dạng hắt những tia sáng phản chiếu sóng biển như những thỏi vàng long lanh, trên trời những cụm mây trắng lững thững trôi vô tình như không biết đến cuộc gió tanh mưa máu đang diễn ra phía dưới, từng đàn hải âu vừa rời tổ riú rít đi tìm mồi làm tôi chợt nghĩ đến cuộc rút quân hoảng loạn vô tổ chức này. Hôm nay mấy chú hải âu sẽ được no bụng vì sẽ có vô số người chết, có thể trong đó có Đan và tôi.
Khoảng 9 giờ sáng 29/3/75, một chiếc tiểu đĩnh loại LCVP không biết từ đâu tới và ngừng lại cạnh chúng tôi, trên thuyền không có ai ngoại trừ anh Trung Sĩ lái thuyền, tôi và Đ/Úy Đan nhẩy lên, anh Trung Sĩ chẳng nói gì, cho thuyền chạy thẳng ra khơi, chúng tôi cũng không cần biết là sẽ đi về đâu, bây giờ tôi mới thấy Đ/Úy Đan mở máy PRC25 gọi đi mấy nơi.
Khoảng 10 giờ sáng thuyền dừng lại bên chiếc HQ 802, chúng tôi dùng thang giây leo lên chiến hạm, có lẽ chúng tôi là những người cuối cùng vì sau đó thang được kéo lên, vị hạm trưởng chiếc HQ 802 là Hải Quân Trung Tá Vũ Quốc Công, ông lịch thiệp vui vẻ chỉ cho chúng tôi tìm đến căn phòng có Thiếu Tướng Bùi Thế Lân và các sĩ quan TQLC. Tôi coi lại vết thương cho Đại Tá Lương sau đó đi lên sân tàu phía trước để tìm chỗ nghỉ ngơi. Trên tàu có khoảng 5,6 ngàn người gồm thường dân và binh sĩ đủ các quân binh chủng của QKI, nhìn thấy họ, tôi thầm cảm ơn Trung Tá Công và thủy thủ đoàn chiếc HQ 802 đã cực nhọc vất vả cứu được nhiều người.
Lên tới sân tàu phía mũi, tôi tìm một chỗ khuất để nằm nghỉ và để “gậm nhấm” nỗi đau thương nhục nhã của một “tàn tốt”, nhưng tôi không được yên vì gặp lại vài người bạn cũ, trong đó có một niên đệ Y Sĩ Trung Úy Phạm Anh Dũng, anh mặc một bộ đồ bộ binh nhầu nát, chỉ trừ cặp lon trung úy sáng chói, anh cười toe toét tươi như hoa đến bên tôi hỏi vài điều, giữa cảnh nước mất nhà tan này mà anh lại vui vẻ như vậy làm cho tôi ngẹn họng không biết nói gì.
Cam Ranh, 30/3/1975.
Chiến hạm HQ802 nhổ neo xuôi Nam khoảng 11 giờ sáng 29/3/75 mang theo nỗi đau buồn nhục nhã chán chường của quân dân QKI, tàu cặp bến Cam Ranh khoảng 3 giờ sáng 30/3/75, thường dân và binh sĩ bộ binh lên bờ trước, sau cùng mới tới lượt TQLC, một điều trái ngược là thương binh lại lên bờ sau cùng. Tôi và Đại Tá Lương xuống tàu khoảng trưa ngày 30/3/75 lúc thủy thủ đoàn HQ802 đang lau rửa tàu. Loay hoay môt lúc mới tìm được xe tản thương đến Bệnh Viện Hải Quân Cam Ranh lúc 1giờ chiều, tại đây tôi gặp một vị niên trưởng tử tế tận tình giúp đỡ nên việc giải phẫu cho Đại Tá Lương trở nên dễ dàng, cuộc giải phẫu kết thúc thành công lúc 4giờ chiều cùng ngày, trong lúc Đại Tá Lương đang ngủ trong phòng hồi sức, chợt nhớ là tôi chưa ăn gì từ hai ngày nay nên vội vào câu lạc bộ hải quân đối diện với bệnh viện để gọi món ăn, nhìn cảnh thanh bình của quân cảng Cam Ranh mà tôi bỗng chạnh lòng thương sót cho mình, vì đã lỡ thích “gió sương” nên mới ra nhập binh chủng TQLC để rồi được quá nhiều “sương gió”!
Đang suy nghĩ vớ vẩn thì chợt nhận ra một điều khác lạ, lúc tôi mang Đại Tá Lương đến bệnh viện thì Quân Cảng Cam Ranh đầy TQLC, bây giờ chẳng thấy ai, hỏi một sĩ quan HQ ngồi bàn bên cạnh thì được biết TQLC đã bắt đầu lên tàu về Vũng Tàu lúc 3giờ chiều, tôi vội trả tiền mặc dù chưa được ăn gì, rồi chạy về bệnh viện. Đại Tá Lương đang ngủ ngon lành, nhưng tôi không có lựa chọn nào khác là phải đánh thức ông dậy, chúng tôi mượn một chiếc xe hồng thập tự lái thẳng đến TTHQ/HQ Vùng II Duyên Hải, tôi bước vào Trung Tâm thì thấy Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đang ngồi uống café với mấy sĩ quan Hải Quân khác, chưa kịp chào kính thì ông đã đứng dậy đưa tay bắt, miệng hỏi:
- Sao bây giờ bác sĩ còn ở đây, TQLC đang lên tàu HQ 802 về Vũng Tàu?
- Tôi mổ cho ông Đại Tá bị thương mới xong,
Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh suy nghĩ một giây rồi nói:
-Thôi được, để tôi giúp bác sĩ.
Nói xong, ông bốc máy nói chuyên một lúc rồi ra lệnh cho hai người cận vệ đưa chúng tôi ra cầu tàu BTL Vùng II Duyên Hải. Có một điều đặc biệt ở ông tướng này làm tôi nhớ mãi là khi tôi chào kính cám ơn ông thì ông chỉ mỉm cười thân mật bắt tay tôi và lịch sự chúc chúng tôi thượng lộ bình an.
Khi chúng tôi đến cầu tàu thì HQ802 đã rút thang và sửa soạn hải hành,có lẽ được báo trước nên trên tàu thả thang lưới xuống để chúng tôi leo lên, hai anh cận vệ của Tướng Minh cõng Đ/Tá Lương lên tàu rồi trở xuống…Chúng tôi là những người cuối cùng lên tàu.
Vũng Tàu 31/3/1975.
Chiếc HQ802 nhổ neo lúc 6giờ chiều 30/3/75, nhưng vì sóng và gió ngược nên mãi đến 8giờ tối mới rời Quân Cảng Cam Ranh để xuôi Nam về Vũng Tàu, trên tàu chở khoảng 4000 tàn binh của SĐ TQLC (TT2TQLC,trang 551), như vậy chỉ có 1/3 quân số của SĐ thoát được về Cam Ranh, gần 8000 TQLC còn lại thì hoặc chết hay mất tích tại Thuận An và Đà Nẵng. đa số các TQLC tinh thần đổ nát và được mặc quần áo mới rộng thùng thình vì khi bơi ra chiến hạm từ căn cứ Non Nước Đà Nẵng sáng ngày 29/3/75, các anh đã phải bỏ lại vũ khí và quân phục trên bờ.
Tôi được biết chỉ có LĐ468 của Đại Tá Ngô Văn Định lui binh tại bãi biển Nam Ô, may mắn được tàu Hải Quân vào sát bờ đón nên quân số và vũ khí cá nhân còn đầy đủ, cuộc lui binh của LĐ258 và 369 TQLC tại căn cứ Non Nước đã xẩy ra trong hỗn loạn và đẫm máu, chỉ có những TQLC may mắn và biết bơi mới lên được tàu, những người còn lại thi…(TT2TQLC, trang 578-579). Ngoài ra tôi được biết SĐTQLC đã có cái vinh dự bảo vệ cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng tá túc trong đêm ngày 28/3/75 tại căn cứ Non Nước để rồi sáng ngày 29/3/75 hộ tống ông lên chiến hạm sớm nhất, trước khi đi, lại còn được nghe ông đã nói một câu đáng được ghi vào quân sử: “Coi như đây là một cuộc tự thoát” (Đ/tá Trí, TT2TQLC,trang 548).
Sư Đoàn TQLC với quân số gần 12.000, là một sư đoàn tổng trừ bị của quân lực VNCH, trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, đây là một trong những sư đoàn thiện chiến nhất mà sở trường là di động đánh những trận địa chiến lớn tấn công những đại đơn vị địch. Sau chiến thắng Quảng Trị năm 1972, sư đoàn này bị QĐI xin giữ lại để làm lính Địa Phương Quân giữ đất cho QKI. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã nhiều lần đòi SĐ/TQLC về, để làm những nhiệm vụ khác quan trọng hơn mà lần cuối cùng là ngày 22/3/75, (Tại sao tôi bỏ QK1, NQT) nhưng QĐI đã không trả, để rồi ngày 29/3/75 SĐ/TQLC không được đánh với địch một trận nào mà bị tan hàng chỉ vì một cái lệnh lui binh hoảng loạn và không chuẩn bị tính toán.
HQ 802 về đến Vũng Tàu lúc 4 giờ 20 chiều 31/3/75, mãi đến 9 giờ tối tôi mới đặt chân lên cầu tàu với tâm trạng nhục nhã chán chường của một bại binh, nhìn trong đám đông tôi thấy anh ruột tôi, Bác Sĩ Phạm Lê Thăng lúc đó đang làm Trưởng Ty Y Tế tỉnh Phước Tuy, anh tôi đang tất tả ngược xuôi tìm tôi trên cầu tàu, gặp tôi anh mững rỡ hơn bắt được vàng, anh nhìn tôi từ đầu đến chân để biết tôi không bị thương rồi hỏi.
- Cậu đã ăn gì chưa, anh có mua khúc bánh mì cho cậu, cả nhà đều lo cho cậu.
Tuy không có một hột cơm nào trong bụng từ ngày 28/3/75 nhưng tôi vẫn nói để anh tôi yên lòng.
- Em còn no lắm, anh cứ đưa ổ bánh cho em để ngày mai ăn sáng.
Hai anh em hàn huyên một lúc rồi anh tôi phải về để báo tin mừng cho gia đình, trong ánh đèn vàng hiu hắt trên cầu tàu, tôi đứng đó, nhìn theo bóng anh tôi khuất trong màn đêm mà lòng đau đớn, tôi đã chẳng làm nên cơm cháo gì để bảo vệ đất nước, bây giơ lại làm cho cả gia đình lo lắng…
Orange County-California, 2010.
Một buổi sáng mùa Thu có nắng vàng rực rỡ, ba anh TQLC già ngồi nhâm nhi nước trà tại Factory Cafe là tôi, Trần Như Hùng và Cao Xuân Huy, trên bàn thấy một tờ báo cũ đăng bài “Tại Sao Tôi Bỏ QKI” mà tác giả là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chúng tôi chia nhau đọc, Tướng Trưởng phủ nhận tất cả tội lỗi của các tướng lãnh QĐI bị kỷ luật và đổ tội làm mất QKI cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Đọc xong tôi thắc mắc hỏi hai đồng đội:
- Quân Đoàn I có quân số tương đương với địch, không đánh một trận nào cấp trung đoàn mà lại tan hàng chỉ trong có năm ngày, vậy mà không ai có lỗi ?
Cao Xuân Huy cười rồi nói:
- Chỉ có mấy thằng lính là có tội thôi!
Đây cũng là câu cuối cùng Cao Xuân Huy nói với tôi vì chỉ mấy tuần sau anh đã lên tàu suốt để trở về bãi biển Thuận An tìm lại khẩu súng đã bị gẫy tháng Ba năm 1975.  
Bằng Phong Phạm Vũ Bằng.
California, 23/3/11
Viết cho mùa đại tang của binh chủng TQLC.  

Một Góc Khác của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Nguyễn Ðạt Thịnh 
Nhà văn Trần Phong Vũ vừa phỏng vấn ông Nguyễn Văn Ngân, phụ tá đặc biệt của tổng thống Nguyễn Văn Thiệụ Nội dung cuộc phỏng vấn giúp chúng ta hiểu thêm một vài góc cạnh khác của ông Thiệu, nhưng không trả lời được câu hỏi đau xót nhất là vai trò của ông trong việc phá tan hai quân đoàn 1 và 2, và để mất một nửa đất nước. Ông có thi hành mệnh lệnh của Hoa Kỳ không? Thái độ của ông, bỏ đất nước, bỏ dân chúng và quân đội để thoát thân chạy theo vợ, con ra ngoại quốc có là chỉ dấu cho thấy ông "mua" sự an toàn của bản thân và gia đình ông bằng cái giá dâng hiến đất nước cho Việt Cộng không?
Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân Ðoàn 1, và thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Ðoàn 2, đã nêu lên nhiều nghi vấn về những mệnh lệnh rút quân của ông. Tôi trân trọng đề nghị nhà văn Trần Phong Vũ và ông Nguyễn Văn Ngân khai phá những điểm còn gói kín bí mật nàỵ Ông Ngân có thể không biết chi tiết, nhưng chắc chắn ông cũng có thể giúp đánh giá thái độ của ông Thiệu trong những ngày Việt Nam bị bức tử, có thể với sự đồng loã của ông Thiệụ Ông Vũ giải thích nguyên nhân ông thực hiện cuộc phỏng vấn, và giới thiệu ông Ngân, "Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, vai chính nắm giữ chìa khóa mở vào những bí ẩn của một giai đoạn lịch sử, đã vĩnh viễn ra đi ngày 29-9-2001 không để lại một vết tích nào, ít nữa là về phía ông. Không hồi ký. Không di chúc chính trị. Ông lặng lẽ trở về lòng đất mang theo một trời tâm sự u uẩn của một nhà lãnh đạo từng được dư luận đặt lên bàn cân với nhiều suy đoán, nhận định, lượng giá khác nhau, đôi khi đối nghịch nhaụ Một khuôn mặt thời cơ? Một kẻ tham quyền cố vị? Một lãnh tụ gan lỳ, nham hiểm, nhiều thủ đoạn? Một người yêu nước cô đơn? Một nhà lãnh đạo quốc gia thông minh, mưu trí, nhưng… sinh bất phùng thời
Do một trùng hợp tình cờ, 5 năm sau ngày TT Thiệu từ trần, chúng tôi đã gặp gỡ ông Nguyễn Văn Ngân, nguyên Phụ tá đặc biệt về chính trị của TT Nguyễn Văn Thiệu dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa để thực hiện cuộc phỏng vấn này trong nhiều ngày của tháng 9 năm nay (2006). Là một cộng sự viên lâu năm và là một Phụ tá trẻ tuổi nhất trong số những Phụ tá đặc biệt của TT Thiệu, ông Ngân thường được giới báo chí ngày đó coi là một khuôn mặt bí ẩn. Đối với các chính khách "vòng trong" thì ông là người đã nắm giữ nhiều quyền lực quan trọng trong hậu trường chính trị miền Nam bấy giờ.
Ông Nguyễn Văn Ngân khởi sự làm việc với TT Thiệu năm 1965, thời gian ông Thiệu giữ chức Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng trong chính phủ Phan Huy Quát. Năm 1967, ông là đại diện của Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia trong liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ tại Hội đồng Tuyển cử Trung ương, trong cuộc chạy đua vào dinh Độc lập. Năm 1971, TT Thiệu ủy nhiệm ông chỉ đạo toàn bộ cuộc bầu cử tháng 10-71; ông là tác giả đạo luật bầu cử tổng thống với điều 10 khoản 7 đưa đến tình trạng độc cử. Năm 1974, ông là tác giả tu chính án Hiến pháp tháng 01-74 gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thống. Ông là người trách nhiệm điều hợp các cơ chế hiến định: Quốc hội, Tối cao Pháp viện, Giám sát viện… và có ảnh hưởng quan trọng đến sinh hoạt của các cơ chế này; đồng thời là người tổ chức đảng Dân Chủ là đảng cầm quyền của TT Thiệu gồm hệ thống quần chúng, chính quyền và quân độị Tháng 5-1974 ông bị TT Thiệu giải nhiệm và buộc phải rời khỏi Việt Nam. Cuối tháng 01-75, ông từ Mỹ và Gia nã đại về nước. Đầu tháng 4 năm ấy ông bị TT Thiệu hạ lệnh cho cơ quan an ninh "cô lập" và chỉ được trả tự do sau khi TT Thiệu rời Việt Nam đi Đài Loan tối ngày 25- 4-1975. 
" Ông Vũ hỏi ông Ngân, "Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng như Tổng thống Thiệu, sự lãnh đạo đều có tính cách chuyên hoạnh cá nhân. Điều này có phải vì đầu óc độc tôn, tham quyền cố vị của lãnh tụ như hiện tượng phổ quát trong hầu hết các quốc gia chậm tiến?
Đ.- Tại miền Nam Việt Nam dưới thời Tổng thống Diệm và Tổng thống Thiệu có nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân: nền dân chủ phôi thai, sinh hoạt chính đảng yếu kém, xã hội phân hóa, chiến tranh v.v..nhưng một trong những nguyên nhân chính có tính cách quyết định là chính sách can thiệp của người Mỹ.
Người Mỹ đã thay thế nguời Pháp với chánh sách thực dân mới Vào thế kỷ 19 người Pháp nhân danh khai hóa để khai thác tài nguyên thuộc địa, nay người Mỹ nhân danh dân chủ để khai thác xương máu người Việt Nam trong việc thiết lập một tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á của chủ thuyết Dominọ Người Mỹ đến Việt Nam không vì quyền lợi người Việt Nam mà vì quyền lợi người Mỹ. Nền dân chủ mà người Mỹ xiển dương khi can thiệp vào Việt Nam là nền dân chủ được định nghĩa trong quyền lợi của Mỹ, một thứ phó sản được dùng làm bình phong để thực hiện chính sách chia để trị, thiết lập đạo quân thứ năm, khuyến khích tình trạng vô chính phủ, nội loạn…để dễ bề khuynh loát và khi cần thiết để thực hiện các cuộc đảo chánh và ám sát lãnh tụ quốc gia bằng bàn tay của các tay sai bản xứ.
Chánh sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ đã được xử dụng như lưỡi gươm Damoclès. Trong khi viện trợ của Nga-Tàu cho Bắc Việt nặng tính cách sản xuất thì viện trợ của Mỹ cho miền Nam Việt Nam hoàn toàn có tính cách tiêu thụ. Trong thời chiến Bắc Việt có khu kỹ nghệ nặng gang thép Thái Nguyên và cục quân giới của tướng Trần đại Nghĩa có khả năng cải tiến Sam 2 bằng cách ngăn chận hệ thống nhiễu sóng radar và đạt tầm cao hạ máy bay B52 của Mỹ bấy giờ đươc xem là loại máy bay bất khả xâm phạm có sức oanh tạc phá hoại ghê gớm – thì kỹ nghệ quốc phòng của miền Nam Việt Nam là con số không. Những dự án xây dựng cơ sở đúc súng đạn, nhà máy lọc dầu, phân bón… từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm đều bị người Mỹ ngăn chận.
Đối với một dân tộc, dù viện trợ có tính cách sản xuất, muốn xử dụng hữu hiệu cũng đòi hỏi phải có tinh thần tự lực, tự cường; huống hồ dân tộc đó vừa thoát khỏi ách đô hộ trăm năm của thực dân Pháp, chính sách viện trợ hoàn toàn có tính cách tiêu thụ chỉ nhằm mục đích làm tê liệt ý chí đề kháng và nô lệ hóa Cùng với chính sách viện trợ có tính cách tiêu thụ và nhân danh dân chủ để can thiệp vào nội bộ quốc gia được viện trợ, chính quyền của quốc gia được viện trợ bị xem là công cụ của ngoại bang, đã đẩy một số quần chúng đi về phía cộng sản và dưới mắt thế giới Việt Nam Cộng Hòa đã bị cô lập, cuộc chiến đấu bảo vệ dân chủ và tự do của nhân dân miền Nam Việt Nam bị mất chánh nghĩa.
Những khó khăn thực sự của ông Diệm và ông Thiệu phát xuất từ chính sách can thiệp của người Mỹ, có thể nói nếu giải quyết được những khó khăn nầy thì sẽ giải quyết được 90% những khó khăn trong việc xây dựng đất nước và chống cộng. Để đối phó với chánh sách hai mặt của người Mỹ, ông Diệm và ông Thiệu bị dồn vào thế lãnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân, và như một vòng luẩn quẩn không lối thoát, sự lảnh đạo có tính cách chuyên hoạnh cá nhân đã làm mất hậu thuẫn rộng rãi trong quần chúng. Chính sách thực dân mới của người Mỹ là yếu tố có tính cách quyết định đã làm sụp đổ miền Nam Việt Nam. Sau thế chiến thứ I, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thế Truyền đã đưa ra một bản cáo trạng lên án thực dân Pháp, thiết tưởng chế độ thực dân mới của Mỹ còn tàn bạo gấp nhiều lần so với thực dân cũ vì sau 30/4/75 Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn bị xóa sổ trên bản đồ thế giới.
 H.- Ông có đồng ý rằng chế độ đệ I và đệ II Cộng hòa cũng như ông Diệm và ông Thiệu đã được Hoa Kỳ yểm trợ nếu không muốn nói là đã góp phần quyết định?
Đ.- Không ai phủ nhận điều đó. Cũng như chế độ miền Bắc với Hồ Chí Minh. Đó là hậu quả đương nhiên của một thế giới lưỡng cực sau thế chiến thứ hai mà Việt Nam là một điểm nóng trong cuộc tranh chấp giữa tư-bản và cộng-sản. Người ta có thể nói Hồ Chí Minh là công cụ của cộng-sản quốc tế nhưng ông Diệm và ông Thiệu trong thực tế không phải là tay sai của Mỹ.
Hồ Chí Minh đã áp đặt chế độ cộng sản trên đất nước, thay thế xiềng xích nô lệ thực dân, phong kiến bằng xiềng xích cộng sản; sự dã man và tàn bạọ như thế nào thì tất cả mọi người đều biết. Và hậu quả di lụy của tinh thần nô lệ đã khiến cho một dân tộc vốn giàu lòng hy sinh, siêng năng, nhẫn nại, đã chiến thắng trong chiến tranh nhưng đã thất bại trong hòa bình – đất nước tụt hậu trong đà tiến của nhân loạị Sau Hiệp Định Genève 1954, người Pháp rút lui để lại miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị kiệt quệ vì chiến tranh – để chống lại cộng sản quốc tế và Bắc Việt, chúng ta chỉ còn tài nguyên nhân lực là máu để đánh đổi viện trợ Mỹ cùng với các điều kiện áp đặt, không còn một sự lựa chọn nào khác. Ông Diệm và ông Thiệu đã lảnh đạo đất nước trong những điều kiện vô cùng khó khăn: xây dựng chế độ dân chủ trên một xã hội băng hoại bởi phân hóa với lịch sử ngàn năm phong kiến, nô lệ ngoại bang, chưa hề kinh qua một giai đoạn quá độ có ý niệm về dân chủ, tự do – không phải là một công việc dễ dàng; đồng thời phải chống lại xâm lăng cộng sản và chánh sách thực dân mới của đồng minh Mỹ, những người quốc gia Việt Nam đã phải chiến đấu sinh tồn trong một hoàn cảnh nghiệt ngã, trong cái thế trên đe dưới búa, giữa gọng kềm tư bản và cộng sản.
Chế độ đệ I và đệ II Cộng Hòa của miền Nam trước 1975 dẫu có nhiều khuyết điểm nhưng không ai có thể phủ nhận rằng các cấu trúc chính trị, xã hội, kinh tế ngày đó đã đặt nền móng vững chắc làm bệ phóng dẫn đầu những con rồng Á Châu sau nầy để trở thành một quốc gia hùng cường tại Đông Nam Á. Tổng thống Ngô Đình Diệm là một nhà ái quốc, người của chủ nghĩa dân tộc, đã bị người Mỹ giết vì bảo vệ chủ quyền quốc gia. Chính biến 1/11/63 và cái chết của ông là sự thất bại chung cho tất cả mọi người quốc gia Việt Nam về một giải pháp quốc gia. Hậu quả là việc quân đội Mỹ trực chiến và sự sụp đổ miền Nam Việt Nam 30/4/75. Chúng ta đã bị lôi kéo vào một cuộc chiến hoàn toàn không cần thiết vì đã không làm chủ được số phận của mình và tất cả dân tộc Vịệt Nam đều là nạn nhân với hơn hai triệu thương vong, hơn bảy triệu tàn phế, hơn hai triệu người bỏ nước ra đi tị nạn với hàng vạn người vùi thân trong biển cả, đất nước đổ nát...
Thời Tổng thống Thiệu khó khăn hơn thời Tổng thống Diệm rất nhiều: hơn nửa triệu lính Mỹ trấn đóng; tòa Đại sứ Mỹ thực tế là một chánh phủ Mỹ tại hải ngoại với một hệ thống cố vấn dày đặc trong tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt quốc gia từ trung ương tới địa phương; số lượng nhân viên CIA chỉ sau trụ sở trung ương (Langley), là chi nhánh có nhân viên đông nhất trên thế giới; và ông Thiệu đã phải đối phó với một nghịch lý: trong khi khối cộng sản quốc tế và Bắc Việt tiếp tục leo thang chiến tranh thì người Mỹ thực hiện giải kết bằng cách rút quân trên chiến trường và nhượng bộ chính trị trên sinh mạng miền Nam Việt Nam tại hội đàm Paris.
Trong cuộc chiến chống cộng và suốt thời gian lãnh đạo quốc gia, có thể nói 90% thời giờ của ông Thiệu được xử dụng trong nỗ lực không ngừng để tranh thủ và đối phó với người Mỹ mặc dầu phạm vi xoay sở của ông mỗi ngày một thâu hẹp; lý do giản dị là chánh sách của Mỹ sẽ quyết định sinh mạng cuả miền Nam Việt Nam chứ không phải cộng sản. Trong đời chánh trị của ông Thiệu có hai kẻ thù chính là cộng sản và Mỹ, và ông đã mang mối hận thù xương tủy người Mỹ đến tận cuối đờị Năm 1983, một buổi chiều ông lái xe cho tôi xem thành phố Londres, ông chỉ vào cái ảnh nhỏ của đứa con út sinh tại Londres sau 1975 gắn gần tay lái, ông nói: khi nó mới tập nói, tôi dạy cho nó: "kẻ thù của con là cộng sản và Mỹ…". Lúc ông chết, ý nguyện của ông muốn hỏa táng để đem tro cốt về Việt Nam nếu có điều kiện, không thì sẽ rải xuống biển chứ không muốn chôn trong lòng đất Mỹ.
H.- Dù sao ông Thiệu đã cầm quyền 10 năm từ 1965-1975, -hòa đàm Paris kéo dài từ 1968 đến 1973– thời gian đủ để tiên liệu và thực hiện những biện pháp cần thiết hầu ứng phó với vấn đề giải kết của Hoa Kỳ nhưng ông Thiệu đã hoàn toàn thụ động. Theo ông, phải chăng tình trạng nầy đã đóng góp vào sự sụp đổ của miền Nam ngày30/4/75?
Đ.- Ông Thiệu thực sự cầm quyền qua cuộc bầu cử tháng 9/1967. Trong khi quân đội Mỹ còn đổ quân vào Việt Nam thì ông Thiệu đã đưa vấn đề giải quyết chiến tranh như một trong ba vấn đề căn bản của chương trình tranh cử: Xây dựng dân chủ -  Giải quyết chiến tranh – Cải tạo xã hộị Sau vụ Tết Mậu thân 1968, ông Thiệu là người chủ động đưa ra đề nghị Hoa Kỳ có thể thực hiện việc rút quân từng giai đoạn trong mục tiêu tranh thủ thời gian đổi lấy viện trợ kinh tế và quân sự vì ông hiểu Việt Nam Cộng Hòa sẽ không có tư thế tại hội nghị hòa đàm nếu không chủ động trên chiến trường v...v…
Nếu cai trị là tiên liệu thì ông Thiệu là người có khả năng tiên liệu nhưng ông không có khả năng để thay đổi được chính sách của Hoa Kỳ trong chiến lược toàn cầu mà vị thế địa lý chánh trị của miền Nam Việt Nam không còn nằm trong quyền lợi ưu tiên của Mỹ, mặt khác, chúng ta không còn ở vào thời đại có thể dùng " tầm vông vọt nhọn " để chống trả với quân thù. Năm 1967 cùng với việc tiếp tục đổ quân vào Việt Nam đại sứ Bunker đã được tổng thống Johnson gởi sang Việt Nam với sứ mạng thực hiện việc giãi kết để rút quân. Khi Nixon thắng cử 1968, đại sứ Bunker đã được yêu cầu lưu nhiệm cho đến tháng 5/1973 sau khi Mỹ đã thực hiện xong việc rút quân và lấy lại tù binh.
Chính sách của đảng Dân Chủ và Cộng Hòa Mỹ trong vấn đề giải kết chiến tranh Việt Nam hoàn toàn có tính cách nhất quán. Nếu sau Hiệp Định Genève 1954, người Mỹ ủng hộ ông Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại để thiết lập nền đệ I Cộng Hòa (1956 – 1963) như căn bản chánh trị để biện minh cho nhân dân Hoa Kỳ và thế giới về chính nghĩa của sự can thiệp vào Việt Nam nhằm ngăn chận sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á, thì năm 1967, người Mỹ đã áp lực chánh quyền quân nhân phải khai sinh nền đệ II Cộng Hòa, thực hiện chánh quyền dân chủ hợp hiến, hợp pháp để đưa Việt Nam Cộng Hòa vào bàn hội nghị và tạo bàn đạp cho Hoa Kỳ hòa đàm với cộng sản để rút quân, lấy lại tù binh, chấm dứt sự can thiệp và để miền Nam cho các phe phái chính trị tự giãi quyết trên căn bản "dân tộc tự quyết", điều mà hai thập niên trước đó Hoa Kỳ không bao giờ chấp nhận.
H.- Ông nghĩ sao về nỗi căm phẫn của đại đa số quần chúng đối với ông Thiệu sau 30/4/75?
Đ.- Quần chúng đánh giá lãnh đạo qua sự thành bại, họ có quyền căm phẫn vì họ là lớp người bị hy sinh nhiều nhất cho đất nước cũng như phải gánh chịu những hậu quả bi đát nhất sau 30/4/75 – nỗi căm phẫn của họ là chính đáng; hơn nữa người lãnh đạo cũng như thuyền trưởng một con tàu, dù tàu chìm bởi bất cứ lý do gì thì thuyền trưởng phải là người rời tàu sau cùng hoặc phải chết theo tàu; mặt khác họ không ở cương vị để có thể nhìn vào mặt trái của cuộc chiến - vừa có tính cách nội chiến vừa có tính cách ủy-nhiệm mà những yếu tố quyết định hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của người quốc gia. 
Tôi nhớ vào khoảng 1990 ông Thiệu có buổi nói chuyện với một số đồng bào tại Westminster, California, một người đàn bà được một tổ chức chống đối sắp đặt đã cầm micro chửi bới ông Thiệu nặng nề. Ông Thiệu chỉ trả lời: tôi rất thông cảm với nỗi căm phẫn của bà. Tôi hiểu sự im lặng của ông, nỗi cô đơn và cay đắng ông đã mang theo đến cuối đờị Ông Thiệu đã chết chắc hẳn không cần tôi biện hộ. Tôi cũng không làm công việc biện hộ mà chỉ nói lên sự thực mà tôi biết – tôi không có bổn phận tranh luận với bất cứ ai và cũng không nhằm thuyết phục bất cứ người nàọ
Đối với tôi, nói những điều tốt mà người ta không có cũng tệ hại như nói những điều xấu mà người ta không phạm phải vì tất cả đều là dối trá – nhất là đối với những người có đời sống công liên hệ đến vận mạng quần chúng thì còn là vấn đề trách nhiệm. Ông Thiệu có những lỗi lầm trầm trọng trong vấn đề lãnh đạo quốc gia cũng như có những sai phạm cá nhân ảnh hưởng đến uy tín lãnh đạọ Ông là một nhà chính trị thực tiễn mà hoàn cảnh và môi trường trưởng thành không thể tạo ông thành một kẻ tử đạọ Tuy nhiên đến nay tôi vẫn nghĩ rằng nếu sự hy sinh có thể cứu vãn tình thế thì ông sẽ không từ nan. Lần tôi gặp lại ông ở Londres, ông nói như tâm sự: làm một người lính ra trận và hy sinh là một hành động dũng cảm, nhưng làm sao có thể sống sót để tiếp tục cuộc chiến đấu thì thật là khó. Xét định một con người cần nhìn vào tổng thể và đặc biệt là những giờ phút nghiêm trọng sinh mạng bị thử thách. Không thể chỉ dùng những sự việc tiêu cực để tổng quát hóa mà phải xét đến các mặt tích cực của cá nhân đó. Tuy nhiên việc định công luận tội là côngviệc của lịch sử sau nầỵ
 H.- Nhiều hồi ký chánh trị nói rằng ông Thiệu luôn luôn bị ám ảnh bởi việc người Mỹ thảm sát các ông Diệm, Nhu nên thường thay đổi chỗ ngủ hàng đêm v.v… Điều này có thực không, và nếu thực thì đã ảnh hưởng như thế nào đến vấn đềlãnh đạo.
Đ.- Hàng năm đến 1/11, ông Thiệu có xin thánh lễ cầu hồn cho cố tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu tại dinh Độc-Lập. Ông Thiệu có kể cho tôi nhiều lần về sáng 2/11/63 sau khi thanh toán mục tiêu dinh Gia-long, ông về trình diện Bộ Tổng –Tham- Mưu và sau đó có ra lệnh cho lính mở bửng thiết vận xa để chào thi hài ông Diệm, Nhu trước khi về nhà. 
Tôi thường qua chỗ ở của ông Thiệu để làm việc những khi ông không qua văn phòng và có khi làm việc trong phòng ngủ khi ông bị đau, tôi không thấy dấu hiệu thay đổi chỗ ngủ hàng đêm như đồn đại sau nàỵ Có những biện pháp an ninh lúc ông đi ra ngoài, chẳng hạn mặc áo chắn đạn, hoặc cái podium ông đứng nói chuyện ngoài bằng gỗ nhưng trong có tấm thép chắn đạn, những biện pháp an ninh đặc biệt trong các cuộc diễn binh v.v…Tôi không để ý những chuyện nầy, đây là công việc của bộ phận an ninh. Chỉ có điều là những đề phòng nầy nhằm về phía Mỹ hơn là cộng sản.
Thực ra ông Thiệu đã sống trong sự đe dọa thường trực của người Mỹ về đảo chánh và ám sát suốt thời gian từ lúc cầm quyền 1967, đến lúc rời Việt Nam đi Đài Loan 1975. Đồng minh Mỹ là một đồng minh bất trắc, khó tiên liệu, và ông Thiệu luôn ở trong tình trạng của người làm xiếc đi dây nguy hiểm. Có lần tôi lưu ý ông Thiệu về trường hợp Tổng Thống Magsaysay, Lý Thừa Vãn, Ngô Đình Diệm…, ông Thiệu nói với tôi là ông không có an ninh…
Trong giai đoạn giải kết, quyền lợi của Hoa Kỳ và của Việt Nam Cộng Hòa tách rời đi đến đối nghịch, trong khi đó quyền lợi của Hoa Kỳ và của cộng sản xích lại gần nhau để đi đến thỏa hiệp chung. ếu cộng sản áp dụng chính sách vừa đánh vừa đàm với Việt Nam Cộng Hòa và phối hợp cuộc đấu tranh trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao…thì chính sách của "đồng minh" Hoa Kỳ đối với "đồng minh" Việt Nam Cộng Hòa cũng tương tự: cà rốt và cây gậy đã được áp dụng triệt để với ông Thiệu trên mọi bình diện để buộc Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận đường lối thương thuyết nhượng bộ cộng sản của Mỹ. Người Mỹ đã tiếp tay với cộng sản trong việc cổ võ, ủng hộ các phong trào phản chiến, đòi hòa bình, hòa hợp hòa giải dân tộc, lực lượng thứ ba… mà thực chất là những tổ chức trá hình của cộng sản nhằm phá vở thế hợp hiến, hợp pháp của chế độ VNCH, và đã không ngần ngại đâm sau lưng những người lính VNCH đang chiến đấu trong cái gọi là chương trình "Việt Nam hóa chiến tranh" để người Mỹ rút quân. Ông Thiệu nói với tôi vụ sư đoàn 3 rút bỏ Quảng- trị 1972 là một "sabotage politique".
Nixon đã viết thư cho ông Thiệu nhắc đến ý đồ thanh toán ông Thiệu của chính quyền Johnson vào năm 1968 và vụ đảo chánh 1/11/63 như một đe dọa trực tiếp nếu ông Thiệu không tuân thủ những đòi hỏi của Mỹ. Vào những tháng cuối trước khi ký HĐ Paris, ông Thiệu nuôi ý định tự sát như một phương cách chống trả cuối cùng. Vào lúc căng thẳng nầy chúng tôi đã triệu tập đại hội nghị viên toàn quốc về Saigòn, tuần hành vào dinh Độc Lập cùng các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ lập trường "bốn không" của ông. Tài liệu của đại sứ Bunker đã ghi nhận ý định tự sát nầy của ông Thiệu qua một báo cáo của ông Trần Thiện Khiêm ghi âm cuộc đối thoại giữa ộng Thiệu, Khiêm. Chính ý định tự sát nầy đã khiến ông Thiệu "lì lợm" trước những đe dọa của Nixon và đã đưa đến những nhượng bộ của Nixon bằng những cam kết mật. Mỗi lần nhớ đến ông Thiệu, thực sự tôi không nghĩ đến những vinh quang bề ngoài của một Tổng Thống mà là những chuỗi ngày khó khăn của đất nước, những áp lực có tính cách quyết định ngày đó của Hoa Kỳ đã đè nặng lên ông, ông đã chiến đấu như một người lính đơn độc không vũ khí, bằng lòng dũng cảm và sinh mạng của chính mình. Tôi không có đức tin tôn giáo nhưng tôi vẫn cầu mong cho ông, một tín đồ ki-tô-giáo, được bình an và thanh thản nơi vĩnh hằng. 
H.- Có phải tổng thống Thiệu nói với ông là việc sư đoàn 3 tháo chạy đã để lại "đại lộ kinh hoàng" và Quảng-trị thất thủ vào tháng 5/72 là một "sabotage politique" của người Mỹ?
Đ.- Đúng như vậỵ Hậu quả đã để lại hơn 20 ngàn thương vong trên "đại lộ kinh-hoàng."
H.- Ông Thiệu đã nói với ông trong bối cảnh nào
Đ.- Ngay hôm Quảng-trị thất thủ. Hôm đó vào lúc xế chiều tôi đang họp trung ương đảng bộ Dân – Chủ tại lầu nhà trắng trong khuôn viên dinh Độc-Lập thì được điện thoại của nhân viên văn phòng cho biết đại tá Đỗ Đức Tâm, thuyết trình viên quân sự của Tổng-Thống đang có mặt tại Văn Phòng của tôi để thuyết trình về tình hình quân sự sau khi vừa thuyết trình cho Tổng-Thống xong.
Vì bận họp nên tôi yêu cầu đại tá Tâm gặp tôi tại lầu nhà trắng để thuyết trình cho tất cả cùng nghẹ Sau phần thuyết trình, tôi nhớ rõ câu hỏi sau cùng của nghị sĩ Trần Trung- Dung, nguyên Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng của tổng thống Diệm: "…liệu chúng ta có giữ được Quảng-trị không? " Đại tá Tâm "…chắc chắn chúng ta giữ được." Chừng nửa giờ sau, điện thoại trên bàn họp reo, tôi nhắc máy, đầu dây là đại tá Tâm cho biết trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh quân đoàn I vừa điện trình Tổng Thống là Quảng trị đã thất thủ trưa hôm naỵ Sự việc cho thấy là trung-tướng Lãm không biết sư đoàn 3 rút bỏ Quảng-trị và như vậy là đã có một "sự cố bất thường" xẩy ra nên tôi bỏ phòng họp đi gặp tổng thống Thịêu ngay lúc đó. Tôi thấy ông rất bình tĩnh. Ông nhìn tôi nói: tôi điện thoại gần như mỗi ngày cho ông Lãm về tình hình quân sự Quảng–trị, tối qua tôi còn nhắc ông Lãm phải coi chừng "thằng cộng sản" ngày 1/5, ông Lãm bảo đảm với tôi là không việc gì, thế mà như vậỵ Ông dằn mạnh: đây là một "sabotage politique". Lúc bấy giờ chỉ có tôi và ông.
Những chuyện như vậy thuộc loại "cấm kỵ" không phải có thể nói với bất cứ ai và không bao giờ ông nói khi có sự hiện diện của người thứ ba. Đó là nguyên tắc ngăn cách ông vẫn thường áp dụng và cũng là cách để bảo đảm sựï an toàn cho chính ông. Trong trường hợp này, ông Thiệu là người duy nhất có đủ yếu tố chính trị để thẩm định, vì ông là người trực tiếp chịu các áp lực của Mỹ. Bấy giờ là tháng 5/1972, trong mật đàm Paris Mỹ và cộng sản đã đạt được các thỏa thuận căn bản, chỉ còn trở ngại về phía ông Thiệu. Gần đây tôi có đọc một chứng liệu của đại-sứ Bunker thuật lại phiên họp tại dinh Độc-Lập một ngày sau khi Quảng-trị thất thủ giữa đại-sứ Bunker, tướng Abrams và tổng thống Thiệụ Ông Thiệu đã không hề quy trách cho các giới chức quân sự Việt Nam, ông im lặng một cách khó hiểu và mãi đến phút cuối cùng "bật nói" :…" không có lý do gì Quảng trị lại bị thất thủ, tướng Giai phải chịu trách nhiệm về việc nầỵ"
Tướng Vũ văn Giai, Tư lệnh sư đoàn 3 giới tuyến, được di tản bằng trực thăng của Mỹ, bỏ lại binh sĩ và dân chúng với "đại lộ kinh hoàng" - đã bị đưa ra Tòa án quân sự, bị tước đoạt binh quyền và ở tù. Tổng thống Thiệu đã ra lệnh tái chiếm Quảng trị ngay sau đó mặc dầu biết rằng Quảng trị sẽ thành một đống gạch vụn, sẽ phải hy sinh những người lính thiện chiến của những đơn vị thiện chiến nhất mà tổn thất khó có thể bù đắp được trong thực tế bấy giờ – nhưng ông đã phải quyết định như vậy, một quyết định chính trị để chứng tỏ quyết tâm của quân dân miền Nam với thế giới, với nhân dân Hoa-Kỳ, nhằm chống trả các thỏa hiệp mật giữa cộng sản và Mỹ mà sau nầy được cụ thể trong Hiệp Định Paris 1973.
Cũng tương tự như vậy, việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa vào đầu năm 1974 đã được sự thỏa thuận ngầm của Mỹ để đặt cộng sản Hà Nội sau nầy trước một "fait accompli ". Ông Thiệu biết Hải Quân Việt Nam không đủ sức đương đầu với hải quân Trung Cộng và hạm đội 7 Hoa Kỳ sẽ không can thiệp nhưng ông vẫn ra lệnh tái chiếm như một chứng liệu về chủ quyền lãnh thổ sau nầỵ Bởi chính sách hai mặt của Hoa Kỳ, nhiều áp lực nặng nề riêng cá nhân ông phải chịu đựng không được chia sẻ và trong nhiều trường hợp ông phải đưa ra những quyết định chuyên độc mà không thể giải thích với đồng bào cùng chiến hữu của ông.
 H.- Nhận định của ông Thiệu về vụ sư đoàn 3 tháo chạy có mâu thuẫn với các quyết định của người Mỹ mở rộng chiến tranh qua các cuộc tấn công của QLVNCH vào hậu cần của cộng sản tại Miên năm 1970 và hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào 1971 hay không?
Đ.- Không. Các cuộc tấn công vào hậu cần cộng sản tại Miên 1970 và Hạ Lào 1971 chỉ có tính cách nhất thời nhằm mục đích chính là dùng xương máu của quân đội VNCH để mở rộng hành lang an toàn cho việc triệt thoái quân đội Mỹ.
Ông Thiệu miễn cưỡng phải chấp nhận mở cuộc hành quân Lam Sơn 1971 vì Hạ Lào tiếp giáp với hậu phương lớn Bắc Việt. Khi có dấu hiệu sa lầy ông đã ra lệnh cho trung tướng Hoàng Xuân Lãm đưa ngay một đơn vị vào Tchepone "đái một bãi" (nguyên văn) và rút ra ngay lập tức. Cần lưu ý là chương trình rút quân của Mỹ không phụ thuộc vào khả năng thay thế của quân lực VNCH, và chương trình Việt Nam hóa thực chất chỉ nhằm yểm trợ cho việc rút quân của Mỹ chứ không phải để VNCH có đủ sức đề kháng và tồn tạị
 H.- Sau này, nhiều người trong đó có những viên chức chính phủ của ông Thiệu cho rằng ông Thiệu đã dựa vào những cam kết mật của tổng thống Nixon nên đã chấp nhận ký kết Hiệp Định Paris vì không hiểu rõ tổ chức công quyền của Hoa Kỳ – thẩm quyền của hành pháp và lập pháp. Như tiến sĩ Kissinger đã nhận định: đó chỉ là những ý định của tổng thống Nixon, không có tính cách cam kết quốc gia vì không có phê- chuẩn của quốc-hộị
Đ.- Vào lúc bấy giờ ông Thiệu cũng hiểu như giải thích của Kissinger sau nầy, nhưng ông cũng hiểu rõ vị thế yếu kém của VNCH và giới hạn cuối cùng mà ông có thể đòi hỏi ở Nixon. Ông Thiệu có chủ định rõ ràng là mua thời gian còn lại của nhiệm kỳ Nixon trong hoàn cảnh "còn nước còn tát ".
Chúng ta cần nhớ rằng không hề có một hiệp ước Việt Mỹ nào về việc Mỹ đổ quân và tham chiến ở Việt Nam cũng như không có một văn kiện pháp lý nào về quy chế trấn đóng của quân đội đồng minh trên lãnh thổ Việt Nam bấy giờ. Những tiểu đoàn TQLC Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng đầu năm 1965 dưới thời chính phủ Phan Huy Quát, ông Thiệu là Tổng trưởng Quốc Phòng kiêm Phó Thủ tướng; ông nói với tôi: tình hình bấy giờ hơn hai phần ba lãnh thổ bị cộng sản ung thối, nếu quân đội Mỹ không can thiệp kịp thì miền Nam mất. Thời đệ I Cộng Hòa, tổng thống Diệm muốn có một hiệp ước hỗ-tương như ở Đại Hàn nhưng người Mỹ từ chốị Các cố vấn quân sự Mỹ đến và đi không qua sự kiểm soát của nhà chức trách Việt Nam. Miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản hoàn toàn bị phụ thuộc Hoa Kỳ, chúng ta không ở vào vị thế có thể đặt điều kiện với họ. Quân đội Mỹ muốn đến là đến, muốn đi là đi, hậu quả là vấn đề đơn phương rút quân, Việt Nam hóa, Hiệp Định Paris… Tương quan Việt Mỹ là một tương quan thực tế mà người Mỹ cố tình không để bị ràng buộc vào những văn kiện pháp lý "giấy trắng mực đen" như ở Triều tiên, Nhật bản, Âu châu là những nơi Hoa Kỳ có mục tiêu dài hạn.
 H.- Đến bao giờ thì ông Thiệu mất tin tưởng vào các cam kết mật của Nixon? Vụ ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long vào đầu năm 1975 có phải là một trắc nghiệm về những cam kết mật hay không?
Đ.– Ngay sau cuộc gặp gỡ Thiệu – Nixon tại San Clemente tháng 4/73. Về phương diện biểu kiến cuộc gặp gỡ mang nhiều ý nghĩa tích cực như là một sự xác nhận các cam kết mật, sự tiếp tục ủng hộ của Hoa Kỳ với VNCH và đặc biệt với ông Thiệu, nhưng thực tế hoàn toàn trái ngược.
 Cuộc gặp gỡ mặt đốimặt đã khẳng định cho ông Thiệu thấy không còn hy vọng vào các cam kết mật cũng như các viện trợ quân sự và kinh tế đã được hứa hẹn trước đâỵ Đây là lý do và thời điểm quyết định việc tu chính hiến pháp: gia tăng nhiệm kỳ 3 tổng thổng. Cuộc độc cử 1971 đã làm sút giảm uy tín chính trị của ông Thiệu; Hiệp Định Paris thừa nhận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam, ngưng bắn tại chỗ, chinh phủ liên hiệp ba thành phần đã hoàn toàn xóa bỏ lập trường bốn không của ông; người Mỹ đã hoàn tất việc rút quân và lấy lại tù binh; và nay là hiểm họa Hoa Kỳ bỏ rơi… khiến ông Thiệu bị lột truồng như câu chuyện ông vua không quần áo (the emperor without any chothes) và hoàn toàn trắng taỵ Tư thế lãnh đạo của ông Thiệu bị đặt trong hoàn cảnh thử thách nghiêm trọng và đây là lý do thực sự của vụ tu chính hiến pháp đã không bao giờ được tiết lộ. Nội dung tu chính bấy giờ được giữ mật vì phải chờ sau cuộc bầu cử bán phần Thượng nghị viện tháng 10/73 mới đủ túc số thực hiện.
Việc tu chính không nhằm vào nhiệm kỳ 3 Tổng Thống mà mục đích thực sự là bày tỏ sự tín nhiệm của dân chúng qua Quốc Hội "để tái trang bị" tư thế lãnh đạo của ông Thiệu hầu đối phó với tình thế mớị Dù muốn hay không sinh mạng chính trị của ông Thiệu đã gắn liền với sự còn mất của chế độ và sau ông sẽ là trận hồng thủỵ Trong cuộc gặp các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ tu chính Hiến Pháp tại hội trường khách sạn Majestic vào đêm trước hôm biểu quyết, tôi có nói rõ: "đây không phải là hành động ủng hộ cá nhân tổng thống Thiệu mà là hành động của mỗi chúng ta để tự cứu". Có thể họ hiểu là tình hình nghiêm trọng nhưng không biết là đang bị Hoa Kỳ bỏ rơi và đất nước đã ở trên bờ vực thẳm.
Nếu Kissinger đã tiên liệu thời gian có thể coi được (decentinterval) từ HĐ Paris 1/73 đến lúc miền Nam sụp đổ là một năm rưỡi thì ông Thiệu đã tiên liệu một thời gian ngắn hơn. Đầu năm 1974 cũng là lúc Quốc Hội biểu quyết tu chính Hiến Pháp, ông Thiệu nói tại Hội đồng Tổng trưởng: "…các quan sát viên quốc tế rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta còn ngồi ở đây hôm nay, tất cả đều nghĩ rằng miền Nam Việt Nam chỉ có thể tồn tại không quá sáu tháng sau HĐ Paris…". Như một người chết đuối vớ bất cứ bèo bọt nào, ông ra lệnh mật cho Bộ Tổng Tham Mưu kiểm thính điện đài các dàn khoan để tìm hiểu trữ lượng dầu hỏa với hy vọng Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam, ông nói: tôi sẽ làm bộ trưởng dầu hỏa chứ không làm tổng thống. Ông chỉ thị cho chính phủ tạo điều kiện dễ dàng cho ngoại quốc đầu tư, ông nói với tôi: bây giờ cho không để bọn nó vào (đầu tư) cũng phải "cho không".
Đối với cộng sản, cuộc tấn công chiếm Phước Long đầu năm 1975 là một trắc nghiệm về ý đồ tái can thiệp của Mỹ được mệnh danh là đòn "trinh sát chiến lược", sau đó Bộ Chính trị đã quyết định mở chiến dịch Tây Nguyên và tiếp theo là chiến dịch Hồ Chí Minh. Đối với ông Thiệu quyết định không tái chiếm Phước Long vì sẽ tổn thất rất nặng không thể bù đắp, có chiếm lại cũng không giữ được, lực lượng trừ bị không còn và phải bảo toàn lực lượng cho các cuộc tấn công sắp tới của cộng sản.
 H.– Ngoài việc tu chính gia tăng ba nhiệm kỳ Tổng Thống, còn có việc gia tăng thời hạn mỗi nhiệm kỳ từ 4 năm lên 5 năm. 
Đ.– Lý do được viện dẫn của tu chính là chương trình kinh tế ngũ niên nhưng sự thực là chúng tôi muốn có khoảng cách xa giữa cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ và Tổng Thống Việt Nam vì nhiệm kỳ Tổng Thống Mỹ cũng 4 năm, và cứ 4 năm thì nước Mỹ lại bị một cơn sốt chính trị ảnh hưởng nặng nề đến cuộc bầu cử Tổng Thống Việt Nam. Đây không phải là mục tiêu chính của tu chính Hiến Pháp nhưng nhân việc tu chính Hiến Pháp thì chúng tôi bỏ vào luôn.
H.- Ông Thiệu có tham khảo ý kiến của người Mỹ về việc tu chính Hiến Pháp hay không?
Đ.- Không.
 Như tôi đã nói ở trên, nội dung tu chính Hiến Pháp đã được quyết định ngay sau khi tổng thống Thiệu ở San Clemente về nhưng được giữ mật cho đến sau cuộc bầu cử bán phần TNV tháng 10/73. Đại sứ Martin chỉ được tổng thống Thiệu thông báo sau khi dự luật tu chính được đệ nạp tại Quốc hội tức là vào khởi đầu giai đoạn công khai. Ông Thiệu nói với tôi: Ngày hôm qua tôi có mời ông Martin vào đây (dinh Độc Lập) để thông báo về việc chúng ta tu chính Hiến Pháp – tôi nói với ông Martin là tôi nhận thấy có bổn phận phải thông báo cho ông đại sứ vì Hoa Kỳ là đồng minh chính yếu đã giúp đỡ chúng tôi trong cuộc chiến… Cụ Hương được ông Thiệu thông báo vào lúc dự luật tu chính được đưa cho các dân biểu, nghị sĩ đứng tên tác giả v.v… Nội vụ hoàn toàn được giữ mật cho đến giờ cuối. ÔNG NGÂN NÓI NHIÊU về vai trò xấu xí của người Mỹ tại Việt Nam. Ðiều này không phải là một khám phá mới. Chúng ta cảm phục chế độ chính trị dân chủ và tổ chức kinh tế, xã hội công bằng và cổi mở của Hoa Kỳ, nhưng nhiều người bất mãn về ngoại chính của họ đối với Việt Nam ngày trước, và đối với nhiều nước khác hiện nay.
Ông Ngân cũng thành công trong việc vẽ ra một ông Thiệu sợ Mỹ hơn sợ Việt Cộng, ưu tư và toan tính đối phó với Mỹ hơn là tìm cách bảo vệ miền Nam bằng những phương tiện quân sự eo hẹp hơn, nhưng cũng thích hợp hơn với hoàn cảnh của đất nước. Nhưng ông không trả lời đúng vào câu hỏi thứ 3, về việc ông Thiệu không làm những điều cần phải làm để bảo vệ đất nước trong giả thuyết người Mỹ giải kết. Ông nói ông không bào chữa cho ông Thiệu, nhưng trút toàn bộ trách nhiệm làm mất Việt Nam cho Hoa Kỳ lại là cách bào chữa kiến hiệu nhất. Ông Thiệu sợ Mỹ nhưng cũng chính ông lại tuyên bố là "không có viện trợ Mỹ, tôi không làm tổng thống nữa", xin ông Ngân giải thích mâu thuẫn nàỵ Quan trọng nhất vẫn là vai trò của ông Thiệu trong những ngày tháng cuối cùng của Nam Việt.
 
Nguyễn Ðạt Thịnh

No comments:

Post a Comment